Về một Giáng Sinh xưa

Về một Giáng Sinh xưa

Gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Ở tuổi mười bảy, thằng tôi, đen đủi, còm nhom, miệng thày lay, tay hậu đậu. Bạn bè chọc ghẹo thêm: cái thằng tay triêu, đập niêu không vỡ, đánh vợ không đau. Thằng tôi nhỏ con, xấu xí, đi đứng ật ưỡng như con lật đật. Vậy mà vẫn có cái uy, dĩ nhiên là ở nhà, với hai đứa em.

Nhỏ Út là gái, ngoan ngoãn hiền lành, không có gì để nói. Có uy với thằng em trai kế, nhỏ hơn hai tuổi, to con, tốt mã, theo ngôn ngữ thời nay thì là có ngoại hình đẹp, mới là chuyện kỳ cục. Ra đường, nó chơi trò đàn anh với đám trẻ cùng lứa, lại đánh bạn với những thằng hơn cả tuổi anh nó. Về nhà, lại xếp re với cái thằng tôi yếu nhớt. Của đáng tội, cũng có một lần, nó dám thượng cẳng chân hạ cẳng tay chống lại tôi. Số là hôm đó chú mèo nhà đi săn ở khu vườn hoang nhà ông Bảo bên cạnh, rình bắt được một con chim cút mập ú, nó tha về cho lũ con nó tập săn mồi. Thấy con chim quá hấp dẫn, tôi thu hồi chiến lợi phẩm, mang vào bếp làm thịt rồi đem rôti thơm phức, định bụng chờ cả ba anh em đi học về sẽ chia nhau thưởng thức. Không ngờ, trong lúc tôi bận việc chi đó, thằng em bất ngờ về nhà, nhìn chú chim quay ròn quá đã, đem ra đánh chén một mình. Khi trở vào nhà, thấy con chim đã chỉ còn bộ xương, nhìn lại thằng em, bộ mặt của nó, rạng rỡ thấy phát ghét, tôi giận dữ chửi rủa và cho nó mấy đấm. Không nói năng gì, nó lẳng lặng đạp cho tôi một đạp, rồi co giò phóng mất dạng, không kịp quay đầu ngó lại. Tối mịt, tôi phải dẫn mẹ đi gọi nó về, tôi biết nó trốn ở đâu, hứa tha tội, nó mới dám về. Coi, thằng anh “xi cà que” mà cũng oai dữ?

Nói vậy thôi, trong xóm thằng tôi cũng có đôi chút nể nang. Xóm quê những năm sau thời đệ nhất Cộng Hoà thật tiêu điều xơ xác. Công việc làm ăn khó kiếm cộng thêm tình trạng an ninh về đêm bất ổn làm nhiều gia đình tương đối khá giả sợ hãi. Họ di chuyển về thành phố, hoặc đến những vùng tương đối an ninh hơn, nhất là đám thanh niên trai trẻ. Ban ngày, những mái tranh xơ xác ẩn nhẫn trong đời sống nghèo nàn, đơn sơ bình dị dưới mưa nắng gió bão. Ban đêm là sinh hoạt của những alô tuyên truyền, những hoạt động đào đường đắp mô, phá hoại đời sống bình thường của người dân quê. Lâu lâu có vụ hai bên đụng độ, để rồi sáng ra thấy một thây người co quắp ở một góc đường nào đó, nhìn kỹ lại thì hoá ra thằng Tửng, thằng Đực…, những đứa mà chỉ mới năm rồi hay vài tháng trước tôi còn nô đùa khi gặp chúng đi chăn trâu chăn bò ngoài cánh đồng trống. Đám thanh niên trai tráng không nhập ngũ thì cũng bỏ về thành, tránh cái cảnh đêm đêm bị lùa vô bưng. Xóm quê còn lại toàn người già, phụ nữ và con nít, trở nên hoang tàn kiệt quệ, dường như mất hết sinh khí. Còn lại đám thiếu niên choai choai chúng tôi ở cái xóm công giáo di cư này, chưa bị lùa vào bưng, có thể vì tối đến, nhà nhà cổng đóng then cài, ai gọi cửa cũng nhất định không mở. Cũng có thể còn được nương tay vì họ còn bận rộn công tác ở những xóm địa phương khác có hiệu quả hơn, vì đám bắc kỳ di cư nổi tiếng phản động, ngoan cố và bất trị, vì không thể tin tưởng, vì đang ở giai đoạn tuyên truyền chưa cần biện pháp mạnh hay vì những lý do gì khác. Nói chung, cả xóm, trừ một vài người bị kết án “có nợ máu với nhân dân” và đã bị giết, chưa ai bị lôi kéo, bắt bớ vào bưng cả.

Năm ấy tôi học đệ nhị, sau này gọi là lớp 11, chuẩn bị thi tú tài phần 1. Không chăm cũng chẳng giỏi, được cái học đều và nhanh, bài vở chỉ liếc sơ qua đêm trước vài lần là đủ trả bài vào sáng hôm sau nên đâm ra ỷ y làm biếng. Vả lại mới đầu năm học, còn khối thời gian. Bởi vậy, đi học về, cùng mấy thằng bạn không phải lo thi cử lang thang, cà phê cà pháo, văn nghệ văn gừng. Cuối tuần lại kéo nhau lên sân nhà thờ đánh volley. Chúng tôi thích đá banh, nhưng không đủ người, đành chơi banh chuyền vậy.Lấy nhà thờ làm ranh giới chia ra hai khu vực đông, tây để đấu với nhau. Để thêm phần hào hứng, giải thưởng cho mỗi trận đấu thường là một chầu gì đó: ăn sáng, nhậu nhẹt hay cà phê buổi tối, tuỳ theo túi tiền từng lúc mà bên thua trận phải bao. Đôi lần, cha H., người cai quản xóm đạo, có thì giờ rảnh rỗi cũng tham gia trận đấu, cho khỏe người, như ông nói.. Một hôm ông bảo:

– Các cậu cứ lông bông lêu bêu suốt ngày như thế này, không có việc gì làm cả sao?

Một thằng trả lời:
– Thì cha biết đấy, trong xóm nghèo này thì có việc gì đâu mà làm. Mỗi nhà có tí vườn, làm ít ngày là đâu đã vào đấy cả. Ở đây buồn muốn chết. Tụi con không lang thang đi chơi thì ở nhà nằm ngủ suốt ngày à.

– Ờ! – Cha H. nói – Các cậu rảnh rỗi thì hãy làm một cái gì cho làng xóm sinh động lên coi!
– Biết làm cái gì bây giờ?
– Thì thay vì la cà ngoài quán, tụ tập nhau ăn tục nói phét, đàn địch ca hát ỏm tỏi. Các cậu thử dung tài trí của mình, khuấy động nổi đình nổi đám cho đồng bào xóm này lên tinh thần, cha hứa hỗ trợ tối đa.

Đang lúc rảnh rang, được lời như mở tấm lòng, lại có mục đích cho cuộc tụ tập vui chơi, chúng tôi đồng ý lên một chương trình văn nghệ tạp lục vào dịp lễ Giáng Sinh 3 tháng sau đó.

Ngặt một nỗi, loe hoe hơn chục đứa, có phấn khởi, coi như được dịp lân la tán gái tự do(ở quê thời này, chuyện tán tỉnh còn khó khăn lắm), nhưng không tài nghệ, không tiền bạc trong tay thì làm được gì? Chúng tôi họp nhau bàn cãi loạn cào cào. Rốt cuộc chúng phán: anh em thằng “Còm” (biệt danh của tôi) có máu văn nghệ, biết đánh guitar, vậy làm trưởng ban tổ chức văn nghệ là hợp lý. Tôi mê đờn địch nên mua về một vây, học lóm thiên hạ chớ biết mẹ gì mà làm trưởng ban, nên dẫy nẩy không chịu. Chúng nó mặc xác, cứ lên báo cáo với cha H., ông cũng đồng tình:

– Ừ, nó coi dáng bộ đàng hoàng, cha đồng ý.

Thế mới chết cái thằng tôi. Thôi, không mỡ xài đỡ đèn cầy. Tôi phải vận dụng hết tài năng và sự khôn khéo ra lãnh đạo một đám choai choai, ương như ổi, phá như giặc.

Trước hết phải gây quỹ. Trong đám, đứa còn đi học, đứa khác lang bang không nghề ngỗng. Tất cả vẫn ngửa tay xin tiền cha mẹ thì tài chánh ở đâu để làm văn nghệ? Tôi nảy ra ý kiến làm sổ xố. Như vậy, chương trinh văn nghệ tạp lục sẽ có hai đêm: đêm đầu là đêm quay sổ xố với văn nghệ tự phát, đêm sau, vọng Giáng Sinh mới là đêm văn nghệ chính. Như thế càng vui, càng được ủng hộ. Nói chung, đời sống xóm quê trong nhiều năm trời vô cùng tẻ nhạt và lo lắng. Nay được sống lại cảnh thanh bình mở hội của mấy năm về trước, ai cũng rộn rã, tuy xóm quê chỉ toàn người già, đàn bà và trẻ nít. Chúng tôi cho in mười ngàn vé với giá một đồng một vé. Thời ấy, với giá ba đến năm đồng một tô phở hoặc một bữa cơm bình dân thì mười ngàn cũng là một món tiền khá to. Dự đoán xử dụng 50 phần trăm cho các giải trúng, ngân quỹ cũng còn năm ngàn. Chí ít, nếu chỉ bán được khoảng 80% vé, chúng tôi cũng có ba ngàn chi tiêu cho mục văn nghệ, vậy cũng tạm đủ. Chúng tôi dự trù làm cuộc vui chung cho cả mấy xóm chung quanh. Bất ngờ cha H. không chấp nhận, chỉ cho phép phổ biến vé trong xóm đạo. Thế là chúng tôi thất bại. Đám dân trong xóm, dù rất ham vui, nhưng chỉ muốn coi “chùa”, moi được đồng bạc của họ, cho dù với hy vọng có thể may mắn trúng được một món gì đó là điều thiên nan vạn giải. Rốt cuộc chúng tôi lại phải kêu gọi sự giúp đỡ của chính gia đình mình trong việc mua số. Cố gắng hết sức cũng chỉ tiêu thụ được ba ngàn vé. Giải thưởng đã mua không thể hồi lại. Chưa gì, chúng tôi đã lỗ hai ngàn. Một kinh nghiệm thật đắng cay. Lên phàn nàn với cha H. vì lệnh cấm phổ biến ngoài xóm quái ác của ông. Cuối cùng, cha H. đền bù cho chúng tôi với chiếc đồng hồ Seiko trị giá ba ngàn của giải độc đắc. Còn lại được một ngàn, chúng tôi đành tự xoay xở thêm: mỗi đứa trong bọn phải đóng góp năm chục trong vòng ba tháng. Một bài họccần thuộc:phải tìm kiếm bảo trợ trước khi dấn thân vào bất cứ chuyện gì.

Xong chuyện tài chánh, đến phần văn nghệ. Dàn dựng sân khấu, đèn điện sẽ được xử dụng từ vật liệu của hội trường nhà xứ. Phần trang trí, phông màn, tất cả cùng làm chung. Tuấn ‘cậu”, Vinh “khoèo”, 2 người đang là nhân viên uỷ ban hành chánh xã, sẽ phụ trách phần âm thanh, lo mượn về và điều khiển. Nội dung văn nghệ mới là điều quan trọng. Xóm nghèo, không có nhạc cụ, cũng phải có đủ ca vũ kịch. Nhân sự không có, chúng tôi rủ đám con gái cùng hợp tác. Chúng nó thích lắm, nhưng đứa nào cũng le lưỡi lắc đầu, thuở ấy xóm quê còn rất phong kiến: nam nữ cứ phải là “thụ thụ bất thân”. Mời tập hát chung vài bài hợp ca vẫn cứ từ chối, chỉ một hai đứa mạnh dạn nhận một vài tiết mục đơn ca. Khó khăn vậy mà sau đó cũng có mấy cặp nên duyên.

Không gạ gẫm được các em đứng chung hàng ngũ, tôi tìm cách khác. Đó là mấy cô thành lập một đội múa nhi đồng, nhờ các cô tập dợt. Thỉnh thoảng tôi cũng ghé qua coi bài hát và việc luyện tập tiến triển tới đâu. Đây cũng là cách vừa có cơ hội giao tiếp, vừa có điểm, có cảm tình lại vừa vuốt ve lòng tự hào của các cô. Gái quê coi vậy mà muốn gần gũi là khó thấu trời chứ không phải chuyện chơi.

Còn lại mười mấy mống con trai phải làm đủ mọi việc. Để có thể tập trung tất cả trong thời gian dài, chúng tôi chỉ có thời gian về đêm. Thế nhưng, tập trung một chỗ vào ban đêm ở trong xóm hết sức nguy hiểm. Bóng đêm là bạn của các” đồng chí”. Các”ngài” có thể về bất thần và hốt trọn ổ. May mắn có một căn phòng của nhà xứ nằm trong khuôn viên rất rộng lớn của nhà thờ, khuôn viên này được bao bọc bởi một hàng rào tre gai dầy dặc, những cánh cổng cao khi được khoá kỹ không thể xâm nhập. Căn phòng rất kín đáo, la hét lớn tiếng, bên ngoài khuôn viên cũng không nghe thấy. Đó là nơi cha H. dành cho chúng tôi tâp dợt văn nghệ: hài kịch, bi kịch, nhạc cảnh, hợp xướng, đơn ca và tiếp theo là các màn trình diễn thời trang mua vui (đàn ông), cà phê, mì gói, tiếu lâm thời đại…

Ba tháng rồi cũng qua đi, ngày diễn tới gần. Tính chất đùa cợt của chúng tôi cũng giảm cường độ để trở nên nghiêm túc hơn. Do đó, tât cả đều làm việc thật hăng say với đầy thiện chí. Bọn con gái, sau một thời kỳ tiếp xúc đã bớt bẽn lẽn và tham gia tích cực hơn. Không có việc gì làm cũng về nhà kiếm ít trái chanh, ít đường ít đá cục cho các anh giải khát hay tặng các anh gói thuốc hút giải lao (hút thuốc mà giải lao? Lao nặng thì có). Cánh con trai chúng tôi được các em chăm sóc chu đáo, bèn hăng say mà làm chết bỏ luôn.

Đêm sổ xố thật vui, người xem đứng chật công viên nhà thờ. Số dân ở ngoài xóm đông hơn dân trong xóm gấp bội. Lâu lắm rồi không có những cuộc vui như vầy, kể từ khi có đoàn cải lương về hát bị đặt chất nổ, vài người banh xác, không đoàn nào dám về hát nữa. Họ trách chúng tôi không bán vé số cho họ để họ cùng vui. Nhưng biết làm sao với lệnh cấm của cha H., ông e ngại bị mang tiếng lợi dụng tôn giáo để làm tiền. Chúng tôi chia ra thật nhiều giải trúng, để đêm vui được kéo dài, xen kẽ vào là những màn trình diễn đơn ca của các ca sĩ vườn, dưới tiếng đàn đệm thay nhau của anh em tôi. Người hát một nơi, đàn đi một ngả, chẳng biết ai sai. Dứt tiếng vẫn có những tiếng vỗ tay xen với tiếng huýt sáo ầm ĩ. Một đêm vui tốt đẹp.

Hôm sau, đêm vọng Giáng Sinh mới là đêm chính. Khán giả vẫn đông như đêm trước. đêm nay có phần trang trọng hơn. Có diễn văn khai mạc, có giới thiệu chương trình. Trong trình diễn hợp ca “Sáng Rừng”, nhìn 2 anh em tôi đứng ở hai đầu đệm đàn, có giọng con gái từ dưới vọng lên: “Anh em thằng ‘Còm’ hôm nay lãng tử hết chỗ chê” làm tôi sung sướng, mũi nở đến muốn tét. Những tiếng cười như phá trong phần hài kịch, vài chiếc khăn tay chấm mắt trong phần bi kịch cũng làm cánh con trai chúng tôi nức lòng, mặc dù toàn kịch sĩ a ma tơ, âm thanh lại không được tốt lắm. Phần múa của các nhi đồng trong “Tiếng Dân Chài” do các cô đạo diễn, hơì luộm thuộm trong trang phục, do thiếu hụt về tài chánh. Các em múa khá thuần thục, tuy chưa hoàn chỉnh với tiếng ca của chúng tôi vì thiếu tập dợt chung. Nói chung, theo tiêu chuẩn một xóm quê nghèo nàn lạc hậu miệt vườn, với những tay mơ tổ chức lần đầu, chúng tôi đã không làm văn nghệ. Chúng tôi chỉ mang đến ít tiếng cười đã tắt từ lâu, ít gíó mát đã quên thổi trên những làn da khô héo. Có lẽ chúng tôi đã mang lại cho xóm quê một ít sinh khí nếu không có chuyện bất ngờ xảy ra.

Bấy giờ, trời đã khá khuya, văn nghệ cũng sắp tàn. Những người già, trẻ nhỏ mệt mỏi đã trở vể nhà nghỉ ngơi một chút trước giờ thánh lễ nửa đêm, chỉ còn lại đám trẻ ham vui. Lời ca tiếng nhạc cũng từ từ lắng xuống. Bỗng nhiên có những bóng người lố nhố xuất hiện, mình giắt đầy lá cây và tay lăm le khẩu súng. Từ xa trong bóng tối, chúng tôi cứ tưởng là những người lính nghĩa quân trong công tác tuần tiễu. Khi họ tiến tới gần, có ánh đèn mới thấy họ lạ hoắc, trên đầu một số cũng đội những chiếc nón thật lạ, sau này mới biết đó là nón cối. Chúng tôi hoảng sợ thì một người có súng ngắn, vai lủng lẳng một chiếc cặp như học sinh, có vẻ là chỉ huy đến nói:

– Yêu cầu các anh đứng yên. Sẽ không có chuyện gì cả. Chúng tôi là đoàn quân giài phóng miền Nam muốn nói chuyện với đồng bào ở xóm này. Vậy một người trong các anh đi kéo chuông để tập trung đồng bào lên đây ngay bây giờ.

Một đứa trong chúng tôi lên tiếng:
– Dạ, chưa tới giờ, cha xứ không cho kéo chuông.
– Cứ đi kéo đi! – Anh ta ra lệnh – anh em chúng tôi đã kiểm soát hết vùng này rồi.
– Dạ không được! Cha chưa cho phép.

Biết không thể nài ép, tên cán bộ dịu giọng:
– Thôi được! đưa tôi vào gặp anh “cha” của các anh coi.!
Hắn bảo một đứa trong bọn chúng tôi dẫn đường, rồi cả bọn kéo nhau đi về phía nhà xứ.
Tôi quay nhìn vào phía trong hội trường, nơi làm hậu trường sân khấu, Tuấn “cậu” và Vinh “khoèo” 2 thằng mặt trắng bệch như hai tờ giấy. Chúng nó đang làm việc tại uỷ ban xã và có lẽ đang nhớ tới cái chết cũa ông Bảo, phó chủ tịch xã cách nay chưa đầy hai năm. Bọn họ mà biết được chúng là ai thì đêm nay là đêm cuối đời của hai đứa. Tuấn lẳng lặng mở cửa chui vào cái kho chật ních đồ đạc bàn ghế của hội trường, leo trốn trên trần nhà. Mấy đứa còn lại chúng tôi cũng mặt xanh như tàu lá, chỉ là đám dân quèn, chắc họ không giết hại, nhưng bắt vào bưng cũng dám lắm chứ. Thừa lúc nhà thờ kéo chuông, thiên hạ kẻ đến người đi, chúng tôi bảo nhau tuần tự từng đứa giả bộ tiến vào nhà thờ, rồi tự động tìm những nơi kín đáo tối tăm nhất, gác đàn, lầu chuông… kiếm một nơi ẩn núp

Rồi giọng của tên cán bộ oang oang trên bục giảng của thánh đường. Tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghe hắn nói những gì. Năm ấy, lần đầu tiên, nhạc Giáng Sinh không thánh thót mà nghe như nghẹn ngào hốt hoảng. Năm ấy trên bục giảng không có lời nguyện cầu bình an mà có súng có đạn, có lời chửi rủa Mỹ nguỵ tay sai. Bên hang đá Chúa, các thiên thần, các mục đồng, các nhà thông thái và cả Chúa Hài Nhi bị vây bủa từ những người về từ bên kía cánh rừng. Họ không đến từ ánh sao lạ trên trời để nhận biết Chúa. Họ đến để mang tới một vì sao riêng của họ, vì sao có sắc vàng trên một nền đỏ của sắt máu hận thù. Họ muốn vì sao ấy sẽ thay thế các vì sao khác để bao trùm ngự trị trên khắp nước Việt Nam, trên khắp toàn cầu.

Tôi nằm trên gác chuông nhà thờ suy nghĩ thật lâu. Thánh lễ nửa đêm đã tan tự lúc nào. Có lẽ người đi dự lễ đã ra về khá bồn chồn lặng lẽ. Không biết có xẩy ra chuyện gì? Phải chăng sự ồn ào náo động của 2 đêm văn nghệ vườn chúng tôi làm đã là cơ hội để cho đám người ở phía bên kia giựt lấy toà giảng ngay trong đêm Chúa giáng trần? Thiện chí của chúng tôi, thay vì đem lại một chút sinh khí cho xóm quê, vô tình lại gieo rắc nỗi lo sợ lớn lao hơn?

Rồi chỉ một thời gian ngắn sau đó là những ngày Mậu Thân ngút lửa. Ôi! Một Giáng Sinh không an bình. Phải chăng đó là điềm báo trước?

Phương Duy
Giáng Sinh 2007

Chuyện đấu tố

Màn đêm và tội ác

Đêm đấu tố ,
và thủ tiêu.
Đêm săn bắt cho đầy chỉ tiêu.
Người chết mau.
Người phát điên.
Đêm cáo chung tự do nhân quyền.
(Đêm Việt Nam, Nhạc Hà Thúc Sinh)
Cơn mưa rả rich suốt ngày. Cái xóm quê hẻo lánh đã nghèo lại thêm cô tịch. Những con đường đất bị hư hại nặng nề vì vết lăn của những bánh xe bò thật lớn bằng gổ bịt sắt của những người nông dân qua lại hàng ngày làm cho chúng gồ ghề, lồi lõm. Nắng thì bụi tung khi có cơn gió mạnh, mưa thì có đoạn như một bãi sình không thể vượt qua. Hàng ngày, xóm quê chỉ tấp nập vào mỗi buổi sáng, người ra chợ, kẻ đi làm, trẻ con đi học. Râm ran một lúc đến khoảng mười giờ sáng, khi chợ hầu như tan thì người qua lại trong xóm cũng bắt đầu thưa thớt. Cho mãi đến giờ kinh chiều trước khi trời tối, người trong xóm lại nghe theo tiếng chuông tụ tập vào nhà thờ xem lễ đọc kinh. Tân Lộc, một xóm nằm lọt thỏm trong một góc của xã An Phú Thượng, một xã địa đầu của Củ Chi, một quận lỵ mà những người phía bên kia vẫn mệnh danh là “thành đồng tổ quốc”. Tên gọi thì thế, nhưng người dân địa phương cứ gọi là ấp Bắc hay xóm Bắc Kỳ vì đây là xóm di cư đa số là người công giáo, quen miệng chọc ghẹo cho vui chứ họ không có ý kỳ thị bắc nam. Người dân địa phương định cư ở đây đã lâu, có gia tiên mồ mả, phần đông lại có tài sản đất đai ruộng vườn, họ rất cần người giúp đỡ họ việc đồng áng, nhất là trong các vụ mùa cày cấy , gặt đập. Người xóm di cư, chỉ trừ một ít gia đình có chút của ăn của để nhờ mang theo được tài sản từ quê Bắc, đa số ra đi với hai bàn tay trắng, chỉ sống nhờ sự canh tác khu đất công của xóm được chia phần cho mỗi gia đình, tuỳ theo số nhân khẩu, khoảng trên dưới một công đất nên không đủ sống. Đất này lại thuộc đất gò, mỗi năm chỉ trông cậy được mỗi một vụ vào mùa mưa. Mùa nắng, đất khô nẻ toác không làn ăn gì được. Bởi thế, người ta phải đi làm thuê làm mướn cho dân địa phương có ruộng có đất, kiếm thêm hạt lúa hoặc ít đồng tiền tiêu vặt. Cuộc sống khá vất vả. Ban ngày đã vắng vẻ thế, về đêm, xóm quê tôi càng lặng lẽ hơn. Dù cách Sài Gòn chỉ hơn 20 cây số, ánh sáng đèn điện chưa lan tới, ngoại trừ dăm ba ngọn trong ngôi nhà thờ chỉ được bật lên vào buổi lễ sáng nhờ cái máy phát điện nho nhỏ mua được từ tiến đóng góp công quỹ trong xóm. Nói chung, giầu nghèo gì ở đây thì cũng cứ đèn dầu leo lét, do đó người ta đi ngủ sớm. Tám, chin giờ tối là khu xóm đã chìm trong bóng đêm, nhất là trong những đêm mưa buồn da diết như đêm nay.
Đêm ấy bỗng dưng chó sủa vang khắp xóm. Dân gian có câu: “chó đâu có chó sủa không, chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày”.Người ăn mày không đi đêm. Người trong thôn xóm nghèo, cũng chỉ nghèo tiền nghèo bạc, chẳng ai thiếu cơm thiếu gạo đền phải đi ăn trộm. Vả lại, dân trong xóm ngoài lúa gạo nhà ai cũng có, chẳng có gì khác để mà ăn trộm. Vì thế, nghe chó sủa trong đêm, không ai bảo ai, mọi người đều biết “mấy ổng” về. “ Mấy ổng” là tiếng để chỉ những “người đi làm cách mạng” phía bên kia, những người mà dân trong xóm sợ hãi đã kéo nhau từ ngoài ấy bỏ chạy cả ngàn cây số . Trừ trong chỗ riêng tư gia đình , ít người dám công khai dùng từ “ Việt Cộng”. Rừng có mạch, vách có tai. Sợ lời xúc phạm ấy mà thấu tới tai “mấy ổng” thì đêm về có mà bỏ mẹ đời. Mà “ cách mạng” hay chọn những đêm mưa rả rich như vầy về công tác lắm. Có lẽ vì cái lạnh lẽo, ướt át, lầy lội của mưa gió làm cho sự canh gát tuần tiểu của đồn lính nghĩa quân lơ là? Hay “ mấy ổng” cũng biết lợi dụng mưa gió để dễ bề hoạt động? Dân ngại ngần hơn thì lệnh lạc sai khiến và thuế má đóng góp cho “cách mạng” mau chóng hơn?
Nhưng đêm nay có gì khác thường , tôi tự nhủ. Mọi lần, chỉ người đi đến đâu , chó theo đến đấy, tiếng sủa khi xa khi gần. Đêm nay,tiếng chó sũa vang khắp mọi phía, dữ dội và rõ rệt hơn bao giờ hết. Điều này chứng tỏ “cách mạng” về rất đông, một vài trung đội hay cả đại đội không chừng. Và rất gần nhà . Tôi mới ôn bài xong, vừa mới lên giường. Chỉ mới hơn 9 giờ đêm. Thường “ mấy ổng” chỉ mò về sau nửa đêm, khoảng thời gian khá an toàn cho các hoạt động tuyên truyền ,thu mua thực phẩm thuốc men, thu thuế hay thúc ép dăm ba người dân theo họ đi đào hào , đắp mô, phá hoại cầu đường để gây trở ngại giao thương. Đêm nay, họ kéo về thật đông, thật sớm bất chấp nguy hiểm , chắc phải có điều gì quan trọng. Một tràng tiếng súng từ phía đồn nghĩa quân vọng tới. Sau đó là những loạt súng từ khắp nơi nổi lên hỗn loạn . ít phút sau, tiếng súng dứt. Chừng như tiếng súng là để cảnh cáo, doạ dẫm nhau chứ không phải để tấn công . Một hồi có tiếng la lối. quát tháo ở bên kia đường, phía nhà ông Bảo, cạnh ngã tư con đường đất. Sau đó là tiếng đàn bà khóc lóc kể lể. Chó vẫn sủa râm ran, nhưng mỗi lúc mỗi xa dần. Mẹ gọi tôi dậy bảo:
- Ai như tiếng bà Hồng đang khóc. Con coi nhà với hai đứa em. Để mẹ qua coi có chuyện gì?
Nói rồi bà mở cửa sau, lẻn qua vườn nhà bà Khâm bên cạnh để qua nhà ông Bảo. Nhà ông Bảo đồi diện nhà bà Khâm, cách con đường nhỏ rộng chừng hai thước. Một lát bà về, gương mặt đầy lo lắng, bà thì thào vào tai tôi:
- Ông Bảo bị Việt cộng về bắt đi rồi, không biết lành dữ ra sao? Bà Hồng ôm mấy đúa con khóc lóc coi thảm quá . Mẹ an ủi sao cũng không xong. Chờ trời sáng xem sao. Cầu cho ông ấy tai qua nạn khỏi.
Nghe tin ấy , tôi thật bàng hoàng. Ông Bảo hiện là phó xã trưởng hành chánh xã An Phú Thượng. Ông bị bắt đi thì rõ ràng lành ít dữ nhiều.

X X X

Dạo ấy tôi mười lăm. Thằng Trung mất đã hơn năm. Trung là con trai thứ của ông Bảo và là bạn học của tôi. Nó hơn tôi đến ba tuổi nhưng học cùng lớp nên vẫn cứ là bạn. Trung cũng như Long ,anh nó và chị tôi, sinh ra và lớn lên ngay thời buổi tản cư chạy loạn ở miền Bắc, rồi di cư vào Nam nên việc học hành bị gián đoạn, thành thử trễ hết mấy năm. Tôi thì lại may mắn vào Nam khi mới lên ba.Qua năm sau, cơ sở trường lớp đã ổn định, dù chỉ là mái tranh vách đất, mẹ lại cho đi học sớm, chắc để bà rảnh tay đi làm kiếm thêm rau cháo, nên được vào ngồi chung lớp với đám thằng Trung. Thật ra, nhỏ Liên, em gái kế nó mới cùng tuổi tôi, nhưng con bé học dưới một lớp, phải chịu làm đàn em. Vả lại , ai mà chơi với con gái, dị chết. Tụi bạn học nó ghẹo cho có nước mà độn thổ. Thằng Trung học hành trong lớp không bằng tôi, nhưng ở ngoài lớp nó tháo vát, khéo tay. Thuở ấy, trẻ xóm nghèo có những trò tiêu khiển rất đơn sơ, con gái hết nhảy ô,nhảy dây lại đập que, rải sỏi; con trai không bắn bi đánh đáo thì cũng đánh khăng chơi vụ. Vụ là những con quay (còn gọi là con thò lò) bằng gỗ quay tít khi được đánh ra từ một sợi dây quấn quanh nó. Tôi đẽo quay rất xấu, thường có ông nội làm cho. Nhưng nội tôi, dù khéo tay cũng chỉ làm cho anh em tôi những con quay chân gỗ , ông bảo cho đỡ nguy hiểm, trong khi đám quay của lũ trẻ chúng lấy đinh sắt cưa đầu làm chân , vừa khoẻ vừa quay lâu hơn, tha hồ cho chúng nó hiếp đáp con quay của tôi. Nhờ có thằng Trung khéo léo làm bạn mà tôi cũng có được những con quay chân sắt để ăn thua với chúng bạn, chỉ cần gà cho nó bài tóan khi nó bí, và lâu lâu chia cho nó một nửa quà sáng mẹ cho. Sau này khi lớn lên vào trung học mỗi đứa mỗi ngả, nó lên trường quận, tôi thi đậu vào một trường ở Sài Gòn, hai đứa không còn học chung. Sài Gòn những năm đầu 60 chưa đông người lắm, vẫn còn những vườn cao su bao quanh miệt Phú Thọ và nhiều khu đất trống. Phương tiện giao thông khá khó khăn. Ngoài tắc xi , xích lô cho người có tiền và dân buôn bán,học sinh và dân thường chờ các chuyến xe buýt đến dài cổ, người ta thường leo lên những chiếc xe thổ mộ cao lêu nghêu do ngựa kéo. Đi lại vất vả thế nên tôi phải ở trọ. Dăm ba tháng mới về nhà một lần. Gặp nhau là hai đứa lại kéo nhau đi chơi đùa nghịch ngợm.
Dạo ấy chưa có TV, radio còn rất hiếm và quí, cả xóm được cấp 3 cái đài màu vàng khá lớn có hình hai bàn tay có lá cờ (Việt - Mỹ) nắm chặt nhau, nhưng chỉ nghe được mỗi một tần số Sài Gòn (dường như thời đó miền Nam chỉ mới có một băng tần?) gọi là radio ấp chiến lược. Chỉ có ba gia đình trong xóm may mắn trúng thăm là có đài để nghe hàng ngày. Thằng Trung mò mẫm nghiên cứu biết cách làm đài tự chế, nó làm cho tôi một cái “dã chiến” có cái loa chỉ bằng nút áo, muốn nghe phải nhét hẳn vào trong lỗ tai mới nghe được. Bấy nhiêu đó đối với tôi cũng quá đủ.Mỗi đêm về , leo lên giường xong là quên hết sự đời. Ngả đầu lên gối, nhét cái máy tí hon vào tai, tha hồ thưởng thức các chương trình thơ văn nhạc kịch, nào là những Tiếng Tơ Đồng, Trường Sơn, Mây Tần , Tao Đàn v.v… và sau này cả nghe đọc truyện Đường Đi Không Đến của ông nhà văn chiêu hồi Xuân Vũ. Thừa thắng xông lên, nó còn đóng luôn một cái đài bằng gỗ khá lớn điều chỉnh được âm thanh để bán cho bố tôi lấy tiền tiêu xài nữa. Đã khéo tay lại siêng năng. Dù ở trong cái xóm nghèo, gia đình ông Bảo không thích nghề ruộng rẫy, chỉ trừ mình nó. Vườn tược cây cối quanh nhà, dường như chỉ có nó đề ý chăm sóc. Có lẽ số mạng nó ngắn ngủi cũng vì siêng năng? Nó chết lãng xẹt
Một hôm lễ nghỉ tôi về thăm nhà. Gặp mẹ ở cửa,vừa lên tiếng, bà đã nói ngay:
- Con mới về đấy à! Thằng Trung chết rồi.
Tôi sửng sốt : - Sao thế mẹ? Mấy tháng trước con về, nó mạnh khoẻ lắm mà?
Me kể: - Nó đi tháo gỡ hàng rào ấp chiến lược, bị VC gài mìn nổ. Chôn nó được hơn tháng rồi.
Thật là tội nghiệp – Tôi nghĩ - Năm ấy, chế độ tổng thống NGô Đình Diệm đã bị lật đổ, chính sách ấp chiến lược chính thức bị loại bỏ. Xóm nghèo của tôi , một xóm ấp chiến lược kiểu mẫu bị chiếu cố . Mỗi gia đình trước đây nhận trách nhiệm vài thước tuỳ theo nhân số gia đình, đào hào lấy đất xây luỹ và đặt hầm chông. Trên bờ đê người ta trồng các cây cọc sắt để rào kẽm gai. Dân trong ấp ban ngày bung ra ngoài làm lụng, tối kéo nhau vào trong rào đóng cổng lại, chia phiên canh gác. Thế lá mấy ổng hết đường về để tuyên truyền, tiếp tế lương thực thuốc men, thu thuế và phá hoại. Khí đám hội đồng quân nhân cách mạng do Dương Văn Minh lãnh đạo lên nắm quyền , họ đã ra lệnh phá bỏ chương trình đang có hiệu quả này. Dân trong xóm lại một phen kéo nhau đi tháo gỡ ấp chiến lược. Để khủng bố , gây sợ hãi cho dân, “ mấy ổng” đêm vể gài mìn bẫy vào công trình tháo gỡ dang dở, đúng ngay vị trí của nhà ông Bảo được chia. Thằng Trung đang cố gắng nhổ lên mấy cây cọc sắt thì một tiếng nổ kinh hồn.vang lên Người ta bỏ chạy tán loạn. Chỉ có mình nó nằm lại. Một số phận hẩm hiu.
Trái mìn nội hoá không đủ sức giết nó chết ngay. Thằng Trung bị thương nặng ở ngực. bụng, tay chân bị gãy. Dù vậy nó vẫn tỉnh táo, khóc và gọi mẹ: “ Mợ ơi (nó gọi bố mẹ là cậu mợ như người Hà Nội)! chắc con chết quá! Con không muốn chết đâu mợ ơi!
Thuở ấy, phương tiện chuyên chở giao thông rất thô sơ, tìm được một chiếc xe chuyên chở thật muôn vàn khó khăn. Băng bó sơ sài, cáng nó về nhà mà cả mấy giờ chưa tìm được xe chở đi bệnh viện quận cấp cứu. Nếu không, nó đã không chết. Nhìn nó đau đớn rên la , ai cũng mủi lòng, từ từ mất máu mà xỉu đi. Nó mất trên con đường đến bệnh viện tuổi đời chưa đầy mười sáu. Trong đám tang, giữa tiếng gào khóc của bà mẹ, có tiếng chép miệng:;
- Giải phóng gì mà kỳ cục! Dân đi làm ấp chiến lược bị gài mìn chết cũng còn hiểu được. Bây giờ gỡ nó đi có lợi cho mấy ổng mà mấy ổng cũng giết không chừa. Thật bất nhân ác đức !

X X X

Ông Bảo là người cùng làng quê với bố ở miền Bắc. Ông thuộc thế hệ đàn anh, hơn bố đến 15 tuổi. Dáng người ông thấp nhỏ,miệng bịt đầy răng vàng, nên có biệt danh ông Bảo răng vàng, giọng nói lại như chuông, thứ giọng nói của người thích chỉ huy, và theo tôi, ông hơi nổ. Thời niên thiếu, ông bỏ làng đi một quãng thời gian dài. Lúc ấy, bố còn quá nhỏ để biết về ông. Nghe lời đồn đại, cũng như đôi khi qua lời kể của chính ông , khi có dăm ba chén rượu, ông đi theo những đàn anh khác trong làng lên mạn ngược.Lúc đầu chủ yếu buôn bán, sau đó đi làm” cách mạng”. Ông Bảo hơi nổ nhưng lại khá kín miệng về đời tư. Người ta chỉ biết chuyện qua đàn anh của ông như các ông chưởng bạ Năm, ông chưởng Láng. Ông sau này còn có tên ông Lý đèo Khế mà cho đến bây giờ, tôi cũng không biết đó là tục danh hay biệt danh. Hai ông này đều là những đảng viên Việt Quốc(hoặc Việt Cách) vào Nam rồi vẫn còn hoạt động công khai, nên mọi người cũng đoán ông Bảo là đảng viên chính trị chi đó. Vào khoảng những năm 45 , họ bất thần trở về làng. Không biết công việc kinh doanh và chính trị của họ ra sao: lời hay lỗ, thành công hay thất bại. Chỉ biết rằng khi trở lại làng, ông Bảo dắt theo về một cô gái Tàu, cô gái ấy là bà Từ Mần Hồng, vợ ông Bảo ngày nay.
Di cư về ở xóm được mấy năm, hai ông chưởng bạ bỏ đi nơi khác làm ăn, có lẽ vì ở đây không có đất dụng võ, cũng có thể vì hoạt động công khai, họ bắt đầu bị cộng sản theo dõi, riêng ông Bảo vẫn ở lại. Người cùng làng quê còn lại được bốn gia đình: ông Bảo, ông Trúc em ông, ông chánh Định và bố tôi, không kể gia đình bà Khâm mẹ goá con côi,em gái ông chánh.. ..Bà Khâm goá chồng nên các ông ngần ngại gặp gỡ, chắc sợ mang tiếng .Ông Trúc có nghề cúp tóc, ở riêng một nơi và luôn bận rộn trong công việc nên ít có sự giao thiệp. Ba người còn lại ở gần nhau nên hay gặp gỡ, thường là vào những ngày chủ nhật , bố nghỉ việc ở sở về thăm nhà.
Nhà tôi ở giữa hai nhà, bố nhỏ tuổi nhất lại ít nói và chịu lắng nghe hai đồng hương đàn anh lắm lời kể lể nên họ hay kéo đến chơi. Khi thì làm ly trà nóng, ngồi phà khói thuôc lào ngẫm chuyện đời, khi lại vài cút rượu bia với một mâm nhậu lai rai, dĩa lòng lợn có đủ tim gan dồi phèo ch1âm mắm tôm. Bọn trẻ chúng tôi khoái chí được nghe hai ông bạn đời của bố, rượu vào lời ra, ngồi khích bác nhau. Những mẩu chuyện của họ mà suốt đời, có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên.
Có hôm, khi ông Bảo đang thao thao bất tuyệt về những ngày lưu lạc kháng chiến một thời khi còn trẻ, cao hứng đến độ con Tô đang ngồi ngoài sân cũng sủa lên mấy tiếng, ông Chánh Định ngồi bên khẽ bảo:
- Gớm , cái ông này thây thì bé mà miệng thì to ! Bớt lại tí coi!
Ông Bảo có lẽ bị mất hứng , quạt lại:
- Thế ông không biết câu: đàn ông to miệng thì sang à? Có đâu như ông, xác thì to , lại đi làm “quan” sai vặt cho lũ thực dân. May mà hồi đó không giáp mặt, chứ gặp tôi đòm một phát là cái mạng ông tiêu dzồi!
Chả là chánh Định có thời từng đi lính cho Tây, cũng chẳng có vẻ ngại ngùng xấu hổ về chuyện ấy. Ông nói:
- Thì đã sao? Đi lính mà có phải đánh đấm gì đâu. Lại còn được cấp khối đồ để xài nữa chứ! Chẳng gì đồ của nó cũng tốt bằng vạn của mình ấy ! Nói thật các ông nghe, đi có vài năm, nó phát quần áo cho tôi mặc suốt đời không hết.Từ giờ đến chết chả cần may sắm gì nữa. Thế còn ông, bao năm đi làm “kách miệng” có “quái” gì, ngoài việc vớ được mỗi một mụ xẩm?
Ông Bảo đốp lại liền:
- Úi dào! quần áo với chả quần thần. (Hồi đó còn nhỏ tôi không hiểu ý ông muốn nói gì, sau này đi học mới biết quần thần = bầy tôi ,nói lái là bồi tây). Mụ xẩm nhà tôi cũng còn bằng mấy mụ quê nhà ông . Còn cái miệng tôi nó oang oang vì nó có gang có thép, nó như cái đài la dô vậy đó. À, nói đến chuyện la dô , tôi lại nhớ đến chuyện mụ vườn của ông . Mấy hôm trước, bà ấy ghé ngang cửa hàng cúp tóc của chú Trúc nó. Lúc ấy, chú đang mở đài cho khách hang nghe, bà nhà ông đến ngó cái đài chăm chú một hồi , rồi bà buột miệng: “ quái lạ! có cái thùng bé con con này mà người nó chui vào chỗ nào mà họ đứng nói được nhỉ?” Nghe bà ấy phát biểu, cả nhà cứ bò lăn ra cười. Thật là “phi nỉ lỗ đía”(finir l’eau dire = hết nước nói, tiếng Tây bồi).
Rồi ông cười khà khà.Ông Chánh Định bèn bĩu môi trả đũa:
- Che bớt tiếng cười lại đi ông ơi! Bà xẩm nhà ông thì cũng “mắm xốt” (même chose= cùng một giuộc) chứ hơn gì. Hôm nọ tôi có việc đến nhà kiếm ông, thì bà ấy bảo ông vào l...ôồng có việc(ý bà muốn nói vào đồn có việc). Tôi noí với bà ấy là ông nhỏ con chui vào chỗ nguy hiểm đó chi vậy. Rồi ông cũng cười hì hì…
Lại có hôm giữa bàn nhậu, ông Chánh Định đang khoa chân múa tay kể lể vể cụ Ngô Đình Diệm, một người mà ông vô cùng ngưỡng mộ, rằng thì là miền Nam mất cụ Ngô là một mất mát lớn lao. Rồi ông kể đến đức tính bình dân giản dị của cụ. Chẳng hạn bữa ăn hàng ngày của ông cụ cũng chỉ làng nhàng dăm ba món như cánh nhà quê chúng mình, tô canh tô cơm, đĩa rau luộc rau xào và đĩa thịt heo luộc hay đậu rán… Ông còn đang hăng tiết vịt thì ông Bảo đã che miệng cười:
- Ông làm cứ như ông là đầu bếp cho cụ không bằng. Tôi nhớ như là từ hồi di cư về đây đến giờ mấy năm rồi, ông đã bước chân ra khỏi cái làng chợ này lần nào đâu mà biết? Đúng là nói một tấc đến giời .
- Ấy! chả phải đi đâu mới biết – Ông Chánh Định nói ngay - Người anh minh thì phải ăn ở như thế thôi. À! Cái lão Dương văn Minh cũng ác thật. Người ta đã chịu hàng rồi còn cho người đi thủ tiêu. Hôm anh em ông cụ bị giết , tôi và mụ nhà tôi khóc hết nước mắt. Thế mà cái con bé nhà Doạn đằng kia nó lại hí hửng mới tức chứ!
- Nó làm gì mà hí hửng?
- Nó bảo nhà nó cùng họ Dương với ông Minh, phen này nhận họ hàng với ông ấy thì có của ăn không hết. Tôi chửi nó là mày ngu như lợn, lão Minh có cho mày ăn cám thì có. Không nhờ có ông cụ đưa mày di cư vào đây thì bây giờ mày cũng rã họng ngoài đó rồi.
- Ừ! Ông nói cũng phải, nhưng có lúc ông nổ còn hơn tạc đạn.
Khích bác nhau chỉ thế thôi, rồi hai người ai về nhà nấy làm một giấc cho giã rượu. Hôm sau gặp nhau lại vui vẻ chào hỏi nhau chẳng để tâm.
Ông Bảo không thích nghề ruộng rẫy. Vào Nam, sau thời gian đầu làm việc cho uỷ ban di cư, ông xoau qua làm thầy thuôc Bắc, nhờ một ít kinh nghiệm học được khi lưu lạc bên Tàu. Nhưng ông chỉ là tay ngang, không cạnh tranh nổi với giáo Cường và giáo Duy, hai ông thầy lang thuộc loại gia truyền. Vả lại cái xóm di cư nghèo mạt rệp, hai ông lang đã là quá nhiếu, nói chi đến những ba người. Nhà ông ở lại ngay trong góc kẹt, không tiện lợi chút nào cho khách hàng thân chủ, thày lang Bảo ế khách dài dài. Được một hai năm chi đó, ông tính xoay qua nghề thuốc Nam cũng không khá hơn. Ông Trúc, em trai ông bảo ông:
- Em thấy bác loay hoay mãi cũng tội . Hay là bác ra cửa tiệm của em cầm cái tông đơ, cái kéo. Khi nào bác vững nghề rồi mở cửa hàng riêng. Nghề này chẳng giàu có gì nhưng cũng tạm đủ ăn.
Ông Bảo từ chối thẳng thừng:
- Cám ơn chú, nhưng tôi không muốn để nhà chú khinh tôi là thằng anh lại đi giựt nồi cơm của chú thím. Hơn nữa, tôi cũng không ham nghề của chú lắm.
Ông Trúc cười:
- Nghề đè đầu thiên hạ lấy tiền mà bác chê? Thì tuy bác đấy!
Ông Bảo cũng cười:
- Chú đè đầu thì để tôi móc họng thiên hạ kiếm sồng vậy.
Thế rồi không biết học từ đâu, ông săm đồ làm nghề trồng răng nhổ răng. Ông bán nhà trong góc kẹt và dời ra ngay ngã tư con đường dẫn ra chợ, tuy chỉ cách căn nhà cũ dăm căn nhưng tiện lợi hơn, vì là nơi mọi người qua lại. Rồi ông thuê thợ vẽ bảng hiệu treo ngay trước cổng. Làm ăn được vài tháng thì khách cũng thưa dần. Đám con nít chưa thấy mặt ông đã khóc thét lên, chưa nói đến chuyện mở miệng cho ông nhổ răng. Mua kẹo nhử cũng chả ăn thua. Cuối cùng, có cuộc bầu cử hội đồng xã. người ta nhớ đến thời hoạt động của ông nên mời ông đứng chung liên danh ứng cử. Rồi ông đắc cử. Ban ngày ra làm việc uỷ ban, chiều đến lại về nhà làm ông nha sĩ…vườn. Bạn bè khuyên ông tối đến nên ra uỷ ban xã nằm trong vòng rào của đồn nghĩa quân ngủ để bảo toàn an ninh, ông gạt đi, nói lũ chuột ấy chỉ giỏi phá hoại và hèn nhát, nhà ông chỉ cách đồn có chừng hai trăm mét thì cũng an toàn lắm, không có gì đáng ngại. Họ lại bảo nếu vậy thì ông nên giữ một khẩu súng phòng thân, ông cũng từ chối và bảo: “ tôi là nhân viên hành chánh, đâu phải lính tráng thì giữ súng làm gì. Vả lại, mình ra làm việc dân việc nước , có áp bức bóc lột ai đâu mà có người muốn hại mình.” Tính ông Bảo gàn gàn như thế.

X X X

Chỉ chừng mới hơn 9 giờ, nhưng ngoài trời mưa gió lê thê, đêm xem ra mịt mù và khuya lắc. Tiếng chó sủa râm ran mỗi lúc một inh ỏi.Có tiếng súng nổ một hồi, đâu phía bên kia đường rồi im ắng. Bỗng dưng tiếng sủa dồn lại thật gần nghe như trước cổng. Rồi lại có tiếng chửi thề đâu đó. Bà Hồng đang nằm, vùng dậy thổi tắt phụt ngọn đèn dầu leo lét trên bàn và run rẩy thì thầm:
- Ông ơi! Chó sủa ngay trước sân nhà mình dữ dội quá! Nghe đâu như có người đang ở ngoài cổng. Làm sao bây giờ?
- Lũ chuột lại về tuyên truyền phá hoại như thường lệ ý mà! Bình tĩnh đi! Bảo sấp nhỏ đi xuống hầm tăng xê. Không chừng có đụng độ lớn.
Bà Hồng kêu mấy đứa con đi xuống bếp chui vào cái hầm ở phía sau. Xong bà lên nhà trên với ông. Căn nhà tối thui. Mưa vẫn rơi đều đều. Bỗng có tiếng hộc lên đau đớn của con chó Mực ngoài sân, dường như nó bị ai đá. Rồi có tiếng chửi thề:
- Đ.M lũ di cư khốn nạn, đã có lệnh cấm nuôi chó mà chúng đếch chấp hành. Bố mày được phép thì cứ bắn bỏ cái lũ phản động này cả nút.
Sau đó có tiếng đập cửa vang dội. Bà Hồng ôm chặt lấy chồng khóc lóc:
- Chết rồi ông ơi! Họ đập cửa kìa.
- Bình tĩnh đi nào – Ông Bảo gỡ tay bà ra - Để coi họ muốn gì?
Bên ngoài, tiếng đập cửa càng dữ dội hơn. Rồi một tiếng nói cất lên:
- Mở cửa. Chính quyền cách mạng có việc cần làm với chủ hộ. Đây là lệnh buộc phải chấp hành. Chống cự lại sẽ bị nghiêm trị.
Một giọng nói khác xen vào:
- Cho vào nhà nó vài quả lựu đạn là xong, khỏi rắc rối lôi thôi.
Tiếng nói đầu lại vang lên:
- Đồng chí không được phát ngôn bừa bãi. Hãy lo nhiệm vụ bảo vệ an ninh của đồng chí đi. Một lần nữa, yêu cầu chủ hộ mở cửa. Nếu không chúng tôi sẽ có biện pháp mạnh.
Bà Hồng gần như muốn xỉu, rốt cuôc cũng run rẩy tiến ra mở cửa. Mấy bóng hình cành là đầy người, súng ống lăm lăm trên tay ùa vào. Một người cầm đèn bấm rọi quanh nhà hỏi:
- Trần Kim Bảo đâu? Có lệnh mời đi họp gấp. Yêu cầu đương sự khẩn trương chấp hành ngay .
Bà Hồng bắt đầu sụt sùi.. Ông Bảo lên tiếng:
- Các ông là ai? Sao lại mời họp hành vào đêm hôm mưa gió khuya khoắt như vầy ?
Người rọi đèn trả lời:
- Là ai không biết à! Cách Mạng yêu cầu đi họp, nghe rõ chưa ? Đừng làm mất thì giờ.
- Tôi không đi đâu cả. Cần gì cứ nói ở đây được rồi.
- Chống đối phải không ? Nói cho anh biết, lời cách mạng là lệnh. Ai chống đối sẽ bị xử lý tại chỗ. Hay anh muốn cả nhà này sẽ bị xử lý cùng lúc ?
Bà Hồng sụp người xuống lạy như tế sao :
- Xin các ông tha cho gia đình tôi. Nhà tôi đâu có làm gì hại đến mấy ông đâu.
- Câm đi - Một giọng nói – Làm tay sai cho nguỵ quyền đàn áp bóc lột nhân dân mà chưa biết tội à.
Bà Hồng càng la khóc lớn hơn. Têncán bộlên tiếng:
- Thôi bà nín đi! Cách mạng chỉ đưa chồng bà đi đả thông tư tưởng một lúc rồi trở về, không có gì phải lo lắng. Anh Bảo chuẩn bị đi để còn về sớm.
- Để tôi đi thay quần áo đã – Ông Bảo nói, ông còn đang bận bộ đồ ngủ pyiama trong người. Tện cán bộ chận lại:
- Khỏi, như vậy tươm tất lắm rồi. Đừng tìm cách trốn chạy đấy nhé! Nói cho biết, chúng tôi bao kín hết rồi.
- Nhưng mưa gió thế này…
- Không phải lo, chính quyền cách mạng đã chuẩn bị đủ. Coi , có phải mình ông chịu mưa gió đâu, chúng tôi
cũng phải chịu đựng vậy.
Quay sang người đứng bên, hắn bảo:
- Đồng chí còn miếng ni lông nào đưa cho y một miếng. - Hắn hất hàm về phía ông Bảo – Thôi, ta đi kẻo muộn.
Rồi hắn quay sang cười hóm hỉnh với bà Hồng:
- Bà cứ yên chí đi ngủ đi! Bảo đảm chồng bà sẽ về đến nhà trước sáng sớm mai.
Nói rồi hai người xúm lại kéo ông Bảo đi ra khỏi cửa. Trong nhà, bà Hồng sợ hãi tới mức co rúm người lại. Mãi một lúc mới lết ra được cửa để đóng lại. Bà nghe rõ tiếng lao xao ngoài cổng bảo nhau: trói chặt nó lại.
Bà xuống bếp gọi đám con dưới hầm lên, và nói với chúng:
- Họ đã bắt “câu “đi rồi các con ơi! Mấy mẹ con ôm nhau ngồi khóc.
Suốt đêm bà không hề chợp mắt. Thổn thức chán bà lại lâm râm cầu nguyện cho gia đình tai qua nạn khỏi. Mưa đã ngưng rơi. Có tiếng gà gáy. Tiếng chuông nhà thờ. Trời chưa sáng đã có tiếng ồn ào ngoài cổng:
- Bà Bảo ơi! Dậy ra mà đưa ông ấy về. Ông đang nằm ở cạnh cây da bên kia lộ cạnh quán nước bà Tư móm đó..
Bà Hồng vừa nghe xong đã ngất xỉu , không còn biết gì nữa. Mấy đứa con đưa bà lên giường rồi cùng hàng xóm tất tả đi ra lộ. Cây da nằm ở phía cuối ấp bên kia sát con đường quốc lộ số một, cành lá xum xuê che rợp một bãi đất khá lớn. Cạnh đó, nằm sâu phía trong là quán bò kho của bà Tư móm. Ban ngày, dưới gốc da mát mẻ, bà cho sấp nhỏ xếp bàn ghế ra làm quán giải khát cho khách đi đường. Đêm đó, đám nhân danh cách mạng dự tính xử ông Bảo ngay tại xóm di cư để răn đe và gây sợ hãi, nhưng đám chó trong xóm làm chúng sợ lộ tung tích v, rồi bị phục kích. Chúng đưa ông ra đây vừa yên tĩnh vừa xa đồn bót. Khu vực này ban đêm ít người lai vãng vì hầu như thuốc quyền bọn họ kiểm soát. Có động cũng dễ dàng thoát về phía bến đò, nơi cây cối chằng chịt như khu rừng, để an toàn trở về căn cứ địa .
Bắt ông Bảo ra khỏi nhà, họ không nể nang gì nữa, mồm miệng thì chửi rủa , tay chân thì tra tấn hành hạ liên tục. Ông Bảo biết mình cũng không thoát nên cũng thoá mạ lại thẳng thừng không kiêng nể. Những thoi đấm lên đầu lên cổ, những bá súng, cú đá vào thân hình còm cõi không thương tiếc, tưởng chừng như ông chỉ là cái bị thịt. Càng bị đánh, ông càng chửi rủa thậm tệ, nào là lũ ác nhân thất đức, nào là bọn khủng bố dã man. Ông càng chửi, họ càng đánh đấm tàn bạo hơn. Cuối cùng, chúng cũng lôi ông đến được dưới tàn cây da nơi chúng quyết định lập toà án nhân dân để xử theo cái thời cải cách..
Trói ông vào cọc. Chúng chia nhau đến một số nhà quanh đó lùa dân ra để lập phiên toà. Người dân ngại mưa gió muốn tránh né. Chúng khăng khăng nhất quyết việc vạch mặt đấu tố tội ác của bọn phản động là nhiệm vụ cách mạng mà mọi người dân phải chu toàn, ai từ chối sẽ bị kết tội che chở và đồng loã. Người dân vì thế sợ hãi phải kéo nhau ra. Thế là bọn chúng huy động đâu được bốn năm gia đình tham dự phiên toà đấu tố.
Theo lời bà Tư, khi chúng hối thúc đồng bào tố giác tội ác của ông Bảo thì không ai nói gì.. Một tên trong bọn bèn mớm lời:
- Tên nguỵ quyền phản động này chắc chắn là có nhiều nợ máu với nhân dân. Bà con hãy nhớ lại xem khi ra làm việc ngoài uỷ ban xã, nó đã trấn áp ức hiếp nhân dân như thế nào?
Rồi hắn chỉ vào một người dân.Người ấy rụt rè thưa::
- Dạ thưa quý vị, thì tôi thấy ổng cũng chỉ nhận đơn từ, rồi lo trình ký cho chúng tôi . Thì cũng ba cái vụ quan hôn tang tế, nơi nào chả vậy. Còn vụ có đàn áp ức hiếp không thì tôi hổng rành lắm
- Thế chả đàn áp là gì? Quê hương xứ sở mình mà nó bằt phải có giấy tờ xin phép, phải có đăng ký. Như vậy còn gì là độc lập tự do nữa. Đúng là một tội ác tày trời.
- Dạ, thì nhà có giỗ chạp cướì hỏi thì phải có vụ tụ tập đông người, ăn nhậu ca hát, nhất là sau giờ giới nghiêm, Vì vậy cũng phải có giấy phép của chính quyền cho hợp pháp chớ!
- Ai cho chị gọi bọn nó là chính quyền ? Chị muốn theo chúng làm phản động luôn hả? Bọn chúng là nguỵ quyền, tay sai cho bọn đế quốc Mỹ xâm lược đáng tội chết. Chúng có quyền gì áp đặt lệnh giới nghiêm lên đất nước này? Lại một tội ác nữa của bọn Mỹ Nguỵ. Thế nó có la ó nạt nộ gì bà con không? Nó có thu thuế chợ thuế vườn của nhân dân không?
- Dạ, Thì thời nào dân cũng phải đóng góp cho công ích vậy thôi. Đường xá, cầu cống, chợ búa trường học bệnh xá xây dựng sửa chữa trông vào có nhiêu đó.- Một người khác nói – Mà chính quyền cách mạng đêm về cũng đến từng nhà thu thuế vậy. Người dân chúng tôi một cổ hai tròng mới cực khổ trăm đường. Còn chuyện ổng làm việc thì cũng có yêu cầu bà con ngồi xuống giữ trật tự ổng mới giải quyết hết đơn từ được. Ổng có nợ máu không thì tôi không biết, nhưng ổng làm việc dân sự , có súng đạn gì đâu. Dà! Đây chỉ là ý của tôi thôi.
- Cha này phát biểu linh tinh mất lập trường . Chính quyền cách mạng mời bà con ra đây để vạch tội lỗi tên Việt gian phản động này, đâu phải để bênh vực nó. Yêu cầu bà con giữ vững lập trường cách mạng, không che chở cho việt gian phản động, không gọi bọn tư sản mại bản, tay sai Mỹ Nguỵ là ông này bà nọ . Phải biết phân biệt phải trái, nhận thức địch ta. Mọi thứ đóng góp cho cách mạng là đóng góp cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, , xây dựng xã hội chủ nghĩa,còn bất cứ gì đóng góp cho Mỹ Nguỵ là góp tay chống phá đất nước, là bị chúng hút máu hút mủ, làm cho nhân dân kiệt quệ. Thằng phản động này tội ác ngập mặt. Nó là tàn dư của đám Quốc Dân Đảng có quá trình đánh phá cách mạng điên cuồng từ miền Bắc gài vào. Nó không trực tiếp bắn giết đồng bào, nhưng nó chỉ thị cho bọn lính nguỵ truy kích sát hại các chiến sĩ cách mạng. Nó giả bộ dễ dãi cấp phát đơn từ cho bà con để cài người trà trộn vào dò xét, đánh phá cách mạng.
Gần gốc cây, ông Bẩi gào lên:
- Tao phản động hay chúng mày phản động. Lũ chuột nào đêm đêm về đào đường đằp mô, giật mìn xe đò, quăng lựu đạn vào chợ búa, vào trường học, vào cả nhà dân gây tang tóc cho đồng bào vô tội? Chúng mày là một lũ thú không phải con người. Ác thú có lẽ cũng không tàn bạo như lũ bay.Bọn bay chỉ là lũ chuột hèn nhát, chuyên giết chóc bắt nạt người dân vô tội không tấc sắt trong tay. Có ngon thì ra mặt chơi với mấy thằng Mỹ kìa. Nó chạy công voa hàng ngày qua đây có thằng nào trong tụi bay dám ló mặt ra, hay chỉ hèn hạ đêm về lén lút bắt bớ những viên chức quèn như tao.. Bắt tao rồi thì cứ giết đi.
- Câm miệng nó lại – Tên cán bộ giận dữ - Mày sẽ được toại nguyện, nhưng không phải được nhắm mắt dễ dàng.
Hai tên đứng hai bên ông Bảo sáp lại gần. Một tên dùng bá súng thúc liên hồi vào mạng sườn, tên kia dộng một đầu cây gậy đang cầm trên tay thẳng vào miệng ông Bảo. Có tiếng lạo xạo của hàm răng bi bể. Máu tươi trào ra từ miệng, ông Bảo thét lên gục xuống, người ta nghe có tiếng rên rỉ:
- Lạy Chúa tôi lòng lành, bọn quỷ nó hành con dã man quá Chúa ơi! Xin cho con được chết ngay bây giờ đi …
Thế rồi chỉ còn tiếng rên rỉ yếu ớt. Đám người tham dự phiên toà sững sờ lấy tay che mặt không dám nhìn. Có người lên tiếng:
- Thôi vậy đủ rồi mấy ông ơi! Ghê quá! Tha cho người ta làm phúc.
Tên cán bô quắc mắt :
- Ai đòi tha nó vậy ? Giờ này mà còn chưa giác ngộ cách mạng. Bênh vực che chở cho nó thì thế mạng cho nó nghe chưa ? Bây giờ để bà con về nghỉ ngơi sớm khỏi chịu thêm mưa gió rét mướt, toà tuyên án tử hình tên tay sai phản động Trần kim Bảo để làm gương cho những tên khác. Ai nhất trí giơ tay lên ?
Hắn đưa mắt nhìn quanh. Không có cánh tay nào đưa lên. Hắn dằn mạnh từng tiếng :
- Yêu cầu bà con cùng nhất trí đưa tay lên kết án tên nguỵ quyền phản động. Không nhất trí được thì bà con ở lại đây suốt đêm nay.
Cũng không thấy ai đưa tay. Hắn tiến đến từng người :
- Anh này, có nhất trí không ?
Có tiếng run run lí nhí trong miệng: - Dạ…c…ó ạ !.
- Vậy sao không chịu đưa tay ? Anh này, chị này, chị này nữa. Vậy là tất cả nhất trí rồi nhé! Toà án thay mặt nhân dân tuyên bố TỬ HÌNH. Bà con ra về được rồi.
Mọi người dìu nhau ra về. Lén nhìn về phía bên kia. Ông Bảo vẫn bị trói vào cây cọc, thân hình khuỵu xuống, đầu gục sang một phía với mái tóc muối tiêu rũ xuống che khuất khuôn mặt méo mó. Từ trong nhà nhìn qua những lếp phên cửa, người ta không thể nhìn thấy những cảnh tượng kế tiếp ra sao, nhưng những tiếng gào thét như lợn bị chọc tiết của ông Bảo đã cho họ hình dung được cái kinh hoàng của cuộc hành hình như thế nào. Một cảnh tượng hãi hùng mà bà Tư móm nói sẽ không bao giờ quên được…
Hàng xóm ra tới gốc cây da. Ông Bảo nằm úp mặt xuống đất, cổ tay vẫn bị trói chặt ra sau. Mặt đất loang lổ bùn máu lẫn lộn, biến bộ đồ ông mặc màu kem thành màu xám với những quầng máu thâm ghê rợn.Trên lưng có một tấm giấy bìa viết nghệch ngoạc dòng chữ kết án tử hình tên phản động. Bản án được chính quyền cách mạng thi hành. Không có vết đạn trên người, nhưng toàn thân, từ đầu đến chân , không có chỗ nào không có dấu bị tra tấn đánh đập. Một cánh tay và chân cũng như hai bên be sườn bị đánh gẫy đầy vết bầm tím. Con mắt trái bị đập lòi hẳn ra ngoài. Mồm miệng vỡ nát. Không hiểu hàm răng vàng ông bịt bị rơi rụng hay đã bị nạy lấy đi. Có lẽ ông chết khá lâu, hay vì trời lạnh giá mà thân thể cứng đơ. Cáng ông về nhà, ông Trúc và chánh Định phải dùng mấy lít rượu bóp cho thân thể mềm ra mới tẩm liệm được.
Ông Trúc khóc anh mà rằng:
- Phải chi bác nghe lời em thì bác giờ vẫn còn sống, làm quan làm thầy chi cho chết tức chết tưởi vậy bác ơi!
Ông chánh Định cũng khấn vái trước linh cửu:
- Tôi với ông bạn cùng trang lứa, không hợp khẩu nhưng hợp tín. Khi trà nước rượu chè hay chọc ghẹo khích bác nhau nhưng chẳng có ác ý gì. Nay ông ra đi, sống khôn thác thiêng, xin phù hộ cho gia đình ông vận hạn thay đổi tốt hơn, cùng phù trợ chúng tôi với
Đám tang ông Bảo có phủ cờ, có điếu văn của chính quyền xã, quận, có huân chương, có tuyên dương công trạng hy sinh cho tổ quốc, có cả một con đường đất đỏ chạy dọc theo xã mang tên ông, và dĩ nhiên được mai táng trong nghĩa trang xóm giáo bên cạnh mộ Trung, con trai thứ của ông , với bia tưởng niệm của chính quyền VNCH. Sau ngày ông mất, gia đình vì buồn rầu sợ hãi, hay vì sinh kế đã dọn đi nơi khác. Long, con trai trưởng của ông Bảo, khi đó đã là cán bộ xây dựng nông thôn đi lập nghiệp một nơi nào đó miệt Long Thành, Bà Rịa. Hai đứa em trai út, Mỹ và Công sau này gia nhập quân đội VNCH. Theo lời em trai của tôi thời gian ấy còn liên lạc.,Mỹ đã hy sinh trên chiến trường khoảng năm 73, Công thì mất liên lạc sau đó. Liên , đứa con gái duy nhất trong gia đình cũng lấy chồng , trôi dạt ở một nơi nào đó.. Bà Hồng giờ có lẽ cũng qua đời .
Cuối năm 2007, nhân tang lễ của bố, tôi trở lại quê nhà , có ra viếng nghĩa trang. Hai ngôi mộ bằng xi măng của cha con ông Bảo, trên mặt phủ một lớp đá xanh vẫn còn đó, bia mộ thì đã biến mất. Có lẽ theo chỉ thị của nhà cầm quyền CSVN, vì họ không chấp nhận những lời tưởng niệm ghi công những người từng là kẻ thù của họ. Thay vào đó là tấm bia bằng xi măng loang lổ đơn giản ghi : Giuse Trần Kim Bảo , TT. 1966 (từ trần 1966), HT.64 T (hưởng thọ 64 tuổi). Thăm lại cảnh cũ, có đến hơn bốn mươi năm rồi. Bố con ông nằm đây cô đơn lạnh lẽo quá. Thắp một nắm hương cắm vội lên hai ngôi mộ điêu tàn, tôi thương cảm chạnh nhớ đến 2 câu của ông đồ Liên:
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
Phương Duy
16/02/2008

Những vấn đề Việt Nam


Việt Nam nhìn qua biến động Miến Điện

Những biến động trong tháng 9 vừa qua tại Miến Điện được thế giới mệnh danh là cuộc cách mạng áo cà sa. Sự đàn áp thô bạo của đám tướng lãnh quân phiệt lên đoàn người biểu tình trên đường phố do các vị sư sãi khởi xướng đã bị khắp nơi lên án nặng nề.

Các nhà sư xuống đường biểu tình trong một tư thế bất bạo động: vừa đi vừa cầu kinh cho hoà bình. Đám lãnh đạo quân phiệt không kiềm chế nỗi lo sợ về một cuộc cách mạng đã ra lệnh cho quân đội thẳng tay đàn áp những nhà tu hành không tấc sắt trong tay.

Có ít nhất mười ba người chết, trong đó có một ký giả Nhật Bản và trên một ngàn người bị bắt giữ theo thống kê chính thức của nhà nước Miến Điện. Nhưng tin ngoài luồng cho biết có đến hơn hai trăm người chết, trên ba ngàn bị bắt giữ, đa số là các nhà sư.

Thế giới lên tiếng.

Liên Hiệp Quốc cử đại diện qua quan sát gặp gỡ rồi làm phúc trình báo cáo. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc muốn ra nghị quyết chế tài bọn quân phiệt độc tài thì bị đám Nga Xô, Trung Quốc phá hoại.

Rốt cuộc, dưới sức ép lo sợ bị thế giới tẩy chay Thế Vận Hội vào năm tới, Trung Quốc phải lên tiếng yêu cầu đám quân phiệt tự chế và không còn cản trở việc Hội đồng Bảo an đưa ra một bản tuyên cáo với những lời lẽ đã được làm nhẹ đi.

Tình hình Miến Điện hiện nay nói chung có vẻ lắng dịu, nhưng như thế không có nghĩa là đã ổn định.

Các thể chế độc tài, dù quân phiệt hay cộng sản, đều giống nhau ở chỗ độc ác, xảo trá và mị dân. Iraq thời Saddam Hussein, Cuba, Bắc Hàn, Miến Điện, Trung Quốc, Việt Nam hay Lybia, Cambodia, Zimbabwe đều không khác biệt.

Khi cảm thấy quyền lực có thể bị lung lay, họ sử dụng ngay đến bạo lực để đàn áp thẳng tay, sẵn sàng gây tang thương đổ máu cho những nạn nhân chỉ vì họ xuống đường biểu tình trong ôn hoà trật tự để mong mỏi đánh thức lương tri của những kẻ cầm quyền.

Đến khi bị thế giới lên án gắt gao và có những biện pháp chế tài để trừng phạt thì họ tìm mọi cách bưng bít thông tin, cắt đứt mạng lưới Internet nối với toàn cầu để những tiếng nói, hình ảnh về sự kiện áp chế không lọt ra ngoài, đồng thời giả bộ hoà hoãn, cho phép đại diện thế giới đến quan sát gặp gỡ những nơi, những người họ có thể kiềm chế được. Thực chất đây chỉ là cách mua thời gian để hạ hoả những dư luận không tốt ở bên ngoài về họ (cứt trâu để lâu hoá bùn). Cùng lúc, họ sai thuôc hạ thân tín lùng sục bắt bớ những nhân vật mà bọn chúng coi là những mầm mống phản loạn, những người lãnh đạo tổ chức biểu tình cố ý gây nguy hại cho sự nắm giữ quyền lực, tất nhiên để bảo vệ các đặc quyền đặc lợi của bọn chúng.

Đó là điều đám tướng lãnh quân phiệt Miến Điện đang làm và họ hy vọng sẽ đạt thành quả như ý muốn. Thế nhưng việc họ có thành công hay không vẫn còn là một câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng.

Bài viết này muốn bàn đến hai khía cạnh: một là những biện pháp chế tài của quốc tế, đặc biệt là sự cấm vận của Hoa Kỳ và khối Liên Âu đối với Miến Điện có thực sự hiệu quả không. Hai là những biến động tại Miến Điện có ảnh hưởng gì tới tình hình Việt Nam.

Các biện pháp chế tài của quốc tế.

Biện pháp cấm vận của thế giới đối với các thể chế độc tài cũng như ủng hộ khủng bố có vẻ không hữu hiệu.

Các biện pháp chế tài luôn luôn cần sự chấp thuận của đa số các thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là sự ủng hộ hoàn toàn của 5 hội viên thường trực, nghĩa là không có phiếu trống hoặc phiếu trắng. Một việc thường khó thực hiện vì 5 thành viên này lại gồm 2 phe đối nghịch nhau và ngay cả trong cùng một phe vẫn có sự tranh cãi khi có sự xung đột về phương thức hành động, về quyền lợi của từng quốc gia bị ảnh hưởng.

Do sự khuynh đảo của những quốc gia này mà đôi khi Liên Hiệp Quốc trở thành một tổ chức có danh mà không có uy. Sự lên tiếng của Liên Hiệp Quốc dường như lúc nào cũng quá yếu vá quá muộn, lại không có những biện pháp chế tài có tính cưỡng bức tất cả mọi thành viên của tổ chức phải thi hành, hoặc nếu có thì cũng quá lỏng lẻo và nhiều sơ hở để các thành viên có cơ hội luồn lách.

Thí dụ việc cấm vận đối với Iraq thời Saddam đã là một cơ hội tốt cho chính quyền tàn độc này tha hồ làm giàu nhờ tham nhũng, hối lộ qua việc xuất cảng dầu thô và nhập cảng lương thực thực phẩm. Điển hình là vụ án hối lộ chính quyền độc tài Saddam Hussein lên tới hàng trăm triệu đô la của tổ hợp công ty xuất nhập lúa mì AWB hàng đầu của Úc qua trung gian một công ty khác ở Trung Đông đã đang làm hoen ố hình ảnh nươc Úc, một đồng minh thân cận và sát cánh nhất với Hoa Kỳ trong cuộc chiến Iraq hiện nay.

Rồi những biện pháp chế tài đối với Cuba, Bắc Hàn, Miến Điện đã chẳng làm suy yếu nhà cầm quyền sở tại hay ít nhất buộc họ thay đổi chính sách mà chỉ thấy những biện pháp trừng phạt ấy lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến đa số nhân dân , làm cho cuộc sống của họ sẵn nghèo đói lại cơ cực hơn.

Câu hỏi được đặt ra là: Cấm vận, một trong những biện pháp chế tài đối với các thể chế côn đồ có cần được cứu xét lại không? Có nên vì một thiểu số lãnh đạo bất xứng mà trừng phạt cả một quốc gia hay không?

Có lập luận cho rằng vì sự trừng phạt làm cho người dân khốn khổ cùng cực. họ sẽ không chịu nổi mà vùng lên nổi dậy lật đổ chế độ bạo tàn. Lập luận này không vững trong những thể chế độc tài đảng trị, khi người dân bị kiềm chế gắt gao rất khó để tập họp quần chúng tạo thành sức mạnh. Ngay cả khi người dân đã quy tụ thành những đám đông lớn có thể có ảnh hưởng thì cũng dễ dàng bị đàn áp giải tán bằng bạo lực và những chiêu thức chính trị khác: cấm tụ tập, giới nghiệm, thiết quân luật, mua chuộc, đe doạ…

Sự tham lam của một số quốc gia vì quyền lợi về kinh tế đã công khai hoặc lén lút chống lại các biện pháp chế tài, tiếp tục giao thương với các thể chế bị trừng phạt làm cho việc cấm vận bị vô hiệu hoá.

Trong trường hợp Miến Điện, sự cấm vận của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu trước đây mang đến hệ quả là 90% nền ngoại thương của Miến trực thuộc vào các quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore và Thái Lan. Những quốc gia này lại đang cần những tài nguyên của Miến như dầu mỏ và đá quí cho sư phát triển kinh tế nên bất chấp lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt Trung Quốc đang cần rất nhiều nguồn nhiên liệu để tiếp tế cho nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ.

Hiện nay Trung Quốc vì áp lực kinh tế và ngoại giao của thế giới đã phải dịu giọng hơn khi lên tiếng yêu cầu lãnh đạo quân phiệt Miến Điện giảm thiểu đàn áp và ngồi lại đối thoại với phe đối lập. Nền kinh tế Trung Quốc cần sự cung cấp nguyên vật liệu, kỹ thuật, vốn đầu tư và nhất là thị trường tiêu thụ trên toàn thế giới để tạo ra công ăn việc làm cho khối dân khổng lồ trên 1 tỷ người và bán ra các thành phẩm.

Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008 sắp tới cũng là lý do để Trung Quốc khuyên nhủ Miến Điện phải hoà hoãn với người dân của họ vì Bắc Kinh muốn thế giới biết đến với một bộ mặt trong sáng hơn là những vụ đàn áp sinh viên biểu tình, vụ đàn áp Pháp Luân Công, xâm lăng Tây Tạng. Bắc Kinh không muốn một Thế Vận Hội 2008 bị tẩy chay.

Họ muốn vươn lên thành một siêu cường mới dưới con mắt toàn cầu sau cái thành công của Thế Vận Hội kỳ này. Đó là cơ hội cho họ phô trương điều mà họ gọi là những thành quả vượt bực của một chế độ độc đảng. Đằng sau ấy có lẽ là một kế hoạch dạy dỗ cho đàn em những phương cách lừa bịp dư luận thế giới, giả bộ hoà dịu để có thời gian triệt hạ hết mọi mầm mống, phần tử đối kháng.

Từ Miến Điện đến Việt Nam.

Miến Điện và Việt Nam cùng thuộc khối Đông Nam Á, cũng là hai thành viên có thể chế độc tài nhất trong khối. Nhân dân của hai quốc gia đều đa số theo Phật giáo, mặc dù hơi có sự khác biệt: tại Miến, Phật giáo được xem gần như quốc giáo, còn tại Việt Nam thì không. Vì vậy việc dấn thân tranh đấu của Phật giáo ở hai nước cũng có sự khác biệt.

Tại Miến Điện, các nhà sư mặc áo cà sa xuống đường biểu tình, đi thành từng đoàn trong trật tự giữa lòng đường và lớn tiếng niệm kinh cầu nguyện cho hoà bình, ở vòng ngoài nhửng bàn tay nối tiếp nắm lấy nhau của sinh viên học sinh và quần chúng để che chở bảo vệ các nhà tu.

Bên ngoài cuộc biểu tình mang rõ màu sắc tôn giáo nhưng bên trong hàm ý một mục tiêu chính trị (hay xã hội? cái nào đúng hơn, chúng ta có thể bàn cãi khi có dịp thuận tiện). Các nhà sư Miến Điện không đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng bản thân họ hoặc cho tôn giáo. Cuộc biểu tình dấy lên khởi đầu do việc nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện tăng giá xăng dầu quá mức, rồi từ từ biến thành công cuộc đấu tranh đòi hỏi dân chủ tự do. Các vị sư đã đại diện nhân dân nghèo khổ để đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng. Nhân dân Miến điện cùng toàn thể thế giới không lên án các ngài là vượt quá giới hạn tôn giáo, là hoạt động chính trị.

Trong khi đó tại Việt Nam các hoạt động của một số tu sĩ như Hòa thượng Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý với cùng mục đích lại bị một số người đồng đạo chỉ trích nặng nề là những kẻ cơ hội chính trị.

Người Á đông thường có truyền thống kính trọng nhà tu hành. Sự kính trọng ở Miến còn cao hơn khi tất cả những người trẻ bắt buộc phải vào chùa tu tập một thời gian trước khi vào đời. Có lẽ đó là lý do Phật giáo Miến Điện là một khối thuần nhất với những tu viện có hàng ngàn tu sĩ. Chế độ quân phiệt độc tài mặc dù rất tàn ác với nhân dân nhưng vẫn có sự kính nể các nhà sư và cũng không có một áp chế nào về phương diện tôn giáo. Nhờ vậy, việc tổ chức biểu tình của giới tăng sĩ tại Miến Điện tỏ ra dễ dàng thuận tiện.

Việt Nam với vấn đề tôn giáo hết sức phức tạp. Sự phức tạp này bắt nguồn từ những chế độ phong kiến và thực dân trong quá khứ đã gây ra nhiều phản cảm và tranh chấp.

Những nỗ lực vận động để giảm bớt đố kỵ xung đột hầu nối kết các tôn giáo trong thời hiện đại đã có kết quả tương đối mà chúng ta có thể thấy qua các hội đồng liên tôn.

Nhưng những hoạt động của các tổ chức này rất hạn chế, hầu như chỉ tóm gọn trong lãnh vực thuần tuý tôn giáo hoà đồng, trong các buổi lễ lạc, văn hoá mà chưa nhắm tới các mục tiêu xã hội, chính trị quan trọng hơn. Các tôn giáo dường như vẫn còn đứng cạnh nhau trong tư thế xa lạ, bằng mặt mà chưa bằng lòng.

Điều này có thể nhìn thấy qua sự kiện dù đã có những liên kết đối thoại, nhưng những hoạt động đấu tranh vẫn có tính cách riêng lẻ từng tôn giáo như của nhóm tinh thần Nguyễn Kim Điền Công giáo , nhóm các mục sư Tin Lành, nhóm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Hoà Thượng Quảng Độ. Những nhóm tôn giáo đều có chung một mục tiêu mà không có sự hợp tác để tạo thêm sức mạnh và bảo vệ lẫn nhau.

Đáng ngại hơn, có sự phân hoá trầm trọng trong từng nội bộ của mỗi tôn giáo chủ yếu do ý đồ của đám lãnh đạo Hà Nội vì không thể tiêu diệt nên xâm nhập gây chia rẽ để phá hoại. Việc thành lập các giáo hội quốc doanh do ban tôn giáo chỉ đạo nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc làm cho các tôn giáo bị suy yếu, tín đồ hoang mang, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo phải chịu phục tòng duới sự sai khiến của nhà cầm quyền để yên thân tu tập hay hưởng chút đặc ân của chế độ là một thực tế hiển nhiên.

Đau lòng mà nói mưu đồ phá hoại tôn giáo của cộng sản Việt Nam đã khá thành công. Niềm tin và sự kính trọng của người dân Việt Nam vào các nhà lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam đang ngày càng sút giảm. Làm sao hô hào quần chúng hoà nhập vào những vấn đề làm cho đời sống xã hội trở nên tốt hơn theo như tôn chỉ của đạo giáo khi chính mình không dám xả thân? Như thế, một tập họp quần chúng dưới sự chủ đạo của tôn giáo tại Việt Nam giống như biến động Miến Điện vừa qua rất khó xảy ra.

Mặt khác, bên cạnh khối tu sĩ đồng nhất của Miến Điện có một gương mặt nổi bật, một biểu tượng mang tầm ảnh hưởng quốc tế về phương diện đấu tranh cho dân chủ và hoà bình: bà Aung San Suu Kyi, một khuôn mặt mà hiện tại Việt Nam chưa có.

Đằng sau khuôn mặt hiền hoà và vóc dáng mảnh mai ấy là một sức mạnh của khối đoàn kết khổng lồ tầng lớp nhân dân lao động Miến, cộng thêm sự ủng hộ mạnh mẽ của dư luận thế giới. Bà là nhân vật mà một cuộc đấu tranh chính trị không thể thiếu, người mà các nhà lãnh đạo tôn giáo, vì giới hạn của tôn giáo, không thể thay thế được. Đơn giản, Việt Nam đang thiếu vắng một khuôn mặt tầm cỡ Aung San Suu Kyi.

Kể ra, hoà thượng Quảng Độ, linh mục Lý cũng đã có thể là những khuôn mặt biểu tượng đấu tranh bất bạo động tại Việt Nam. Tuy nhiên, chiếc áo nhà tu đã làm giới hạn tầm hoạt động của các ngài để bước qua lãnh vực cao xa hơn như thành lập đảng phái chính trị hay trở thành linh hồn của một cuộc cách mạng như bà Aung San Suu Kyi.

Không phải Việt Nam không có những khuôn mặt lớn về phương diện đấu tranh, có nhiều là đằng khác nữa. Tiếc thay, việc có quá nhiều lại đưa đến vấn đề. Tuy có chung một mục tiêu nhưng mỗi khuôn mặt lại có những đường lối riêng, lý luận riêng, khuynh hướng khác biệt đến đôi khi thành đối chọi.

Những nhóm khác biệt tất nhiên có sự hậu thuẫn quần chúng khác biệt đưa đến hậu quả của việc hoạt động rời rạc, lẻ tẻ, không phát huy được sức mạnh quần chúng nhân dân thành một lực lượng tổng thể, do đó cũng không tạo được tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trên trường quốc tế.

Những trí thức lãnh đạo này có một điểm chung là trong hoạt động thường chú trọng đến lý luận mà thiếu quan tâm đến thực trạng.

Tình hình Việt Nam trong quá khứ đáng lẽ đã tạo được sức thu hút quần chúng mãnh liệt với những cuôc khiếu kiện rất kiên trì của dân oan khắp nước để đòi lại ruộng đất, công nhân lũ lượt đình công đòi tăng lương, đòi cải thiện công ăn việc làm. Tuy nhiên, những người lãnh đạo đấu tranh đã không nắm bắt được cơ hội để đẩy mạnh tiếng nói của họ, phong trào của họ lên một mức độ cao hơn.

Trong khi người dân xuống đường chống lại những bất công của xã hội thì những người mệnh danh là nhà đấu tranh lại chỉ bàn những chuyện đâu đâu. Hết đối thoại đến hoà hợp hoà giải, hết thời cơ đến hiểm hoạ… Họ đưa ra những luận điểm từ ý nghĩa của dân chủ xem ai đúng ai sai đến các sách lược hành động: tiệm tiến từ từ, thúc đẩy đột biến cách nào khả thi, đòi hỏi lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải thực thi dân chủ là điều cấp thiết hay cứ để gia nhập vào dòng kinh tế toàn cầu rồi chính trị phải từ từ biến đổi theo luật chơi chung… Đủ mọi hình thái lập luận mà người dân bình thường không thể (và không muốn) hiểu.


Có người còn đi xa hơn với những tranh luận ngộ nghĩnh kiểu “Muốn phê phán Marx thì phải đọc Marx” hoặc “sự thảm hại của bộ môn phản biện Marx”. Họ cho rằng dân trí Việt Nam thấp, cần được họ là những học giả triết gia hướng dẫn giáo dục. Họ đâu biết người dân hèn cần gì Marx mà họ cần cơm ăm áo mặc, cần một mái che trên đầu, cần công lý để được đối xử bình đẳng, được có cơ hội thăng tiến.

Lý thuyết cao đẹp mà khi áp dụng lại không khả thi, lại toàn tác hại đến đời sống thực tế, làm con người mất nhân phẩm, giá trị thua hàng súc vật thì lý luận hay ho để làm gì? Tại sao không dành kiến thức cho nhữnh hành động cụ thể hơn là tập trung vào những lý luận trừu tượng, xa vời, không thực tế?

Sự tàn độc tráo trở của cộng sản Việt Nam so với đám quân phiệt Miến còn cao hơn. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong việc trấn áp nhân dân trong quá trình hơn 50 năm cầm quyền, cộng thêm những bài học rút tỉa từ Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Tây Tạng, Miến Điện và ngay cả từ các nước Tây Phương và miền Nam Việt Nam trước đây, do đó thủ đoạn đàn áp của họ rất tinh vi, xảo quyệt. Bởi thế, Việt Nam bao trùm trong một nỗi sợ hãi không dễ thoát ra.

Tuy nhiên, để thúc đẩy cho một tiến trình thay đổi tốt đẹp và mau chóng hơn cho xã hội Việt Nam, mỗi người phải tự trấn tĩnh mình, nén bớt sự sợ hãi, chấp nhận một phần gian khổ. Sự đấu tranh với bạo lực dù trong tinh thần ôn hoà bất bạo động vẫn đòi hỏi kiên quyết và cần một số hy sinh nào đó.

Các lãnh đạo phong trào trước hết cần là một tấm gương của sự hy sinh và tinh thần không sợ hãi, sau đó cần giao lưu với nhau để liên kết và phối hợp tổ chức. Cần tiếp xúc với nhân dân, nhất là những khi có cơ hội họ tập họp đông người để lắng nghe, thông cảm, giải thích và tạo niềm tin, tạo sức mạnh quần chúng.

Riêng quần chúng cũng cần tự tìm đến nhau để khích lệ nhau hoá giải hoặc ít nhất giảm bớt nỗi sợ trong lòng, gây thêm hưng phấn, có cái nhìn thiện cảm về những nhà đấu tranh, những lãnh đạo phong trào vì những mục tiêu cao đẹp cho xã hội của họ chứ không phải với những ánh mắt nghi ngờ về một ý đồ chính trị nào đó.

Mục đích của chính trị dù ở thời đại nào, chế độ nào cũng là để xây dựng một đất nước tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, một xã hội ấm no và công bằng hơn, con người hạnh phúc và đáng sống hơn. Chỉ có những kẻ cơ hội, những con người lợi dụng chính trị để trục lợi cho cá nhân, cho gia đình, đảng phái hoặc tôn giáo của mình, gây thiệt hại cho người khác, cho xã hội mới là những kẻ xấu xa bỉ ổi.

Mọi người, đặc biệt các bạn trẻ, cần hoà mình vào những hoạt động trong xã hội mà mình có thể tham gia, không nên đứng ngoài một cách bàn quang với lối biện luận thiếu trách nhiệm rằng tôi muốn yên thân, không muốn dính vào chính trị hoặc quá nhỏ nhoi cho một vấn đề quá to lớn. Chúng ta nên dự phần vào tương lai của chính mình.

Bên cạnh các biểu tượng đang có là Hoà thượng Quảng Độ, Linh mục Lý mang tính cách hỗ trợ tinh thần, công cuộc đấu tranh bất bạo động tại Việt Nam đang cần một khuôn mặt dân chủ không mang màu sắc tôn giáo có đủ uy tín và bản lãnh để đương đầu với nhà cầù quyền Việt Nam.

Một ước mơ.

Tình hình Miến Điện trong những ngày qua dưới áp lực quốc tế đang biến đổi thật nhanh. Bọn họ bị buộc phải thả bà Aung San Suu Kyi đang bị quản chế tại gia, cử đại diện đến đối thoại với bà và còn phải đưa cả hình ảnh cuộc đối thoại với bà lên kênh truyền hình quốc gia. Đây là điều mà nhà cầm quyền không bao giờ muốn.

Kết quả này là một bước khởi đầu rất tích cực tuy còn nhỏ nhoi, chưa có hiệu quả tức thời. Một tia sáng đã lóe lên ở cuối đường hầm không chỉ cho riêng nhân dân Miến Điện mà cho cả nhân dân Viêt Nam và có lẽ toàn vùng Đông Nam Á.

Tôi ước mơ vào một ngày thật gần, với làn sóng dân chủ đang thẳng tiến về phía đông, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay vì đóng vai trò độc thoại trên mạng, diễn tuồng hài cho mọi người với câu nói suông “yêu nhất sự trung thực ghét nhất sự giả dối” như ông đã làm mấy tháng trước đây sẽ ngồi xuống đối thoại thẳng thắn với (chẳng hạn) Nguyễn Đan Quế hay Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình để cùng thảo luận với nhau dân chủ là gì, hay lộ trình nào cho dân tộc Việt Nam trong tương lai.

Hoặc có thể là Nguyễn Minh Triết hăng hái tranh cãi công khai với (thí dụ) Nguyễn Văn Đài hay Đỗ Nam Hải, Lê Thị Công Nhân về đề tài thế nào là chính quyền của dân, do dân và vì dân, hơn là thấy ông chủ tịch ở trong nước thì khoá miệng dân, đi ra ngoài thì khoa môi múa mỏ “sống trên đời là để yêu thương nhau”, về đến nhà lại tuyên bố với đám quân đội vũ trang rằng bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát.

Và những tranh luận đối thoại này sẽ được trình chiếu trên màn hình cả nước để ai ai cũng nhìn thấy đất nước bắt đầu thực sự đổi thay.

Được như thế, khối người Việt hải ngoại chắc sẽ sẵn lòng tích cực hỗ trợ công trình xây dựng và phát triển đất nước trên mọi phương diện. Khỏi có những cảnh xuống đường biểu tình mỗi khi có những phái đoàn trong nước viếng thăm để rồi bị gán cho là chống cộng cực đoan, chống phá đất nước, nguyền rủa quê hương, chất chứa hận thù.

Các nhà lãnh đạo dân chủ và quần chúng trong nước hãy cùng suy nghĩ về những điều trên. Cơ hội dường như đang tới, xin đừng bỏ lỡ. Tương lai của dân tộc, của chính quí vị đang ở trong tầm tay quý vị.
Phương Duy
(11/2007)

Truyện ngắn: Có một mùa xuân đang tới

Có một mùa xuân đang tới.

MỘT : Huyền thoại một hải đảo

Đầu năm 73, Danh có lệnh thuyên chuyển. Đơn vị mới là một đảo nhỏ xíu nằm ở tận cùng đất nước: Poulo Obi, địa danh là một chấm nhỏ trên hải đồ mà tên tục của nó là Hòn Khoai. Trước khi đến, Danh đã có được một tuần nghỉ phép về thăm nhà, rồi về An Thới, Phú Quốc trình diện bộ tư lệnh vùng bốn , ăn nhờ ở đậu bạn bè ở đó mấy ngày nằm đợi phương tiện di chuyển . Cuối cùng, con tàu chở Danh đến đảo lại là chính con tàu mình vừa rời bỏ. Cũng vui khi bạn bè cũ lại có dịp chúc thượng lộ bình an lần nữa. Ra đón anh vào bờ là một trong những chiến thuyền của đơn vị mới, trông giống như một chiếc ghe cá có mũi cao như cần cổ của loài ngỗng trắng, nên thường được gọi là những con thiên nga. Đứng trên bãi là Kim, một thằng bạn cùng khoá trong quân trường. Thằng Kim này theo ngành cơ khí, trong khi Danh học ngành chỉ huy lái tàu. Hồi đó cứ dài mỏ chê tụi nó cơ khí tối nước, còn mình chỉ huy mới ngon lành, hoá ra có tiếng mà không có miếng. Trong khi nó nhàn hạ làm việc trên bờ, trong văn phòng, da dẻ trắng trẻo, mặt mũi tươi tắn còn hơn gái thành thị thì gương mặt Danh đen kỉn, xám xịt vì gió biển và nắng nóng. Đấy! để xem ai tối nước hơn ai. Nói vậy, có thằng bạn cùng khoá là khỏi bỡ ngỡ, đỡ lo chuyện ma cũ bắt nạt ma mới .
- Hê Danh! khoẻ không mày? Còn nhớ tao ?
- A!Kim phải không? mày ở đây lâu mau rồi?
Kim cười, tới xách phụ một cái sắc cho Danh:
- Thì từ hồi ra trường tới giờ, đi hạm đội 7 mấy tháng rồi về đây. Mừng có mày đến nhập đảo, chuẩn bị những ngày tháng lưu đày.
- Mày nói chi lạ? Cái gì mà lưu đày?
Kim cười bí hiểm : - Từ từ rồi mày thấy.
Rồi nó lên giọng ngâm nga: Quanh năm mì gói cùng tương chao./ Ngủ với chị năm cũng đỡ hao./ Ghiền khói ra sân tàn thuốc lượm./ An côn thay rượu chẳng bớt sầu. Đó, tứ khoái ở Obi là như vậy, mày thấy đã chưa?
. Kim chỉ tay về những dãy nhà:
- Căn cứ này có đến 2 doanh trại. Đây là doanh trại chính, gọi là Bờ Bắc, do người Mỹ mới xây dựng tặng cho đơn vị vài năm nay. Trước đây, chỉ có một doanh trại cũ phía bên kia núi gọi là Bờ Nam. Bên ấy gìờ chỉ còn mỗi phòng vô tuyến truyền tin, vì bên bờ Bắc này bị núi cản rất khó liên lạc truyền tin với nội địa. còn tất cả nhà cửa biến thành khu gia binh cho những binh sĩ có đưa gia đình đến sống chung.
Hòn đảo này nằm giữa sự giao lưu của 2 luồng gió, một từ biển Đông thuộc Thái Bình Dương, một vịnh Hà Tiên ảnh hưởng Ấn độ Dương, nên khi gió mùa Đông Bắc thổi thì bên này biển động, mùa Tây Nam thì bên bờ kia dậy sóng. Chiến thuyền của đơn vị , cứ theo mùa mà về bến núp sóng bờ này hay bờ kia. Trước đây, mọi sinh hoạt của đơn vị trên bờ đều ở cả phía bên kia.. Khi sóng dậy bên đó, thuyền bè phải qua nằm hết bên này. Điều bất tiện là sự liên lạc trên bờ dưói thuyền rất là khó khăn. Chính vì thế, người Mỹ xây cất doanh trại này lên tặng cho đơn vị làm căn cứ chính thức. Họ dùng xe ủi đào sâu vào vách núi để nới rộng thêm vùng thung lũng, rồi đổ đá ra biển làm thành một bức kè chắn sóng. Sau đó họ xây một bến cập phía trong cho thuyền cập và xây cất trên bãi một căn cứ gồm 4 dãy nhà dài xếp thành hình chữ U quanh một cột cờ nằm giữa sân trải đá vụn xoay mặt ra biển. Hai dãy nhà bên tay trái dùng cho sinh hoạt thường ngày của mọi quân nhân từ quan tới lính, nhà nguyện (cầu kinh, tụng niệm) và phòng giải trí. Dãy nhà trước mặt là các văn phòng làm việc. Dãy nhà bên tay phải gồm các nhà máy điện kho tiếp liệu, vũ khí đạn dược và câu lạc bộ. Ngay sát bãi biển là bồn chứa nhiên liệu cho thuyền bè.
Hai người đi lên căn cứ. Một bóng người nhỏ nhắn từ văn phòng tiến gần lại. Kim nói:
- Đây là ông phó (chỉ huy phó) Tấn. À quên nói với mày là ông trưởng (chỉ huy trưởng) đi phép chưa về. Lại trình diện ông phó đi.
Danh chưa kịp đưa tay lên chào thì phó Tấn đã đưa tay ra:
- Danh đó hả? Hai đứa cùng khoá phải không? Khỏi trình tấu gì hết. Tới cái hoang đảo này mà còn hình thức gì nữa! Cho đàn em thoải mái. - Tấn đùa - Chào ông cố nội đủ rồi.
- Ờ đúng - Kim xen vào - , chào ông cố nội đi con! (truyền thống dân tốt nghiệp Nha Trang, hai khoá liền nhau có lể bố con, một khoá sinh đàn anh nhận một đàn em làm con đỡ đầu, Tấn trên Danh tới ba khoá , tức thuộc hàng ông cố nội).
- Thôi, lo kiếm chỗ cho nó ở , luôn tiện giới thiệu sơ cho nó biết về đơn vị. Tao bận chút việc .
Tấn bắt tay rồi trở về phòng trực. Còn lại hai người đi về khu phòng sĩ quan. Kim nói:
- Có mấy phòng trống , mày muốn chọn cái nào? Ở cạnh phòng tao thì đông vui nhưng ồn ào. Muốn tu thiền thì ra cái căn phòng xa xa kia mà ở.
Danh bước vào phòng của Kim., liếc nhìn chung quanh. Giữa vách ván viết lăng nhăng dăm câu thơ vài bài vè, một bàn thờ nhỏ xíu có tấm ảnh 4x6 bán thân của một sĩ quan trong lễ phục mầu trắng, bên dưới là hàng chữ : Tổ Quốc tri ân, hy sinh ngày (không có ngày tháng). Danh giật mình hỏi Kim:
- Anh chàng này mới đi “bán muối” hả? Sao không có ngày tháng năm nào hết trơn? Kim cười:
- Thằng Lập đó, đại niên trưởng trước bọn mình 2 khoá. Nó đang đi công tác ngoài biển chứ chết chóc gì! Buồn quá hết chuyện chơi nên bày trò trù ẻo nhau chơi. Tuị tao chơi trò dĩ độc trị độc Nhờ vậy mà thằng nào cũng mập mạnh có sứt mẻ gì đâu? Mày không nhớ là hiệp định Paris vừa ký xong sắp có hiệu lực? Chuẩn bị ngưng bắn. Hoà bình tới rồi mà chẳng thấy vui vẻ gì, còn mệt nữa.Khi không chúng nó vào ăn nằm chình ình ngay tại giữa Sài Gòn, còn ngang nhiên họp báo chí ngoại quốc tuyện truyền chửi bới mình nữa, vừa nhục vừa tức mà không làm gì chúng được. Tuị uỷ ban kiểm soát đình chiến mà không bảo vệ chúng kỹ thì ló ra mặt ra, dân Sài Gòn có lẽ đã đập chúng te tua.Lúc này ở đây phải thêm công tác đi cắm cờ cắm quạt liên miên. Mình được lệnh đi bảo vệ cắm cờ trên các hải đảo, kể cả những đảo hoang. Ít hôm nữa nó về là tới phiên đứa khác ra thay thế, có lẽ mày không chừng. Chỉ có tao làm tiếp liệu trên bờ là khoẻ. Thắng Lập hiền khô, chọc cho nó chửi mà nó nhất định không tức mới lạ. Cũng tội nghiệp nó, đi lính xông pha trước lằn tên mũi đạn thì chẳng hề hấn gì. Có con bồ ở thành phố yên lành lại lăn đùng ra vì ăn đạn pháo kích của tụi nó. Bây giờ chàng bơ vơ lắm nên muốn ngồi thiền. Phải làm gì đó cho nó quên niềm đau.
Danh mang đồ ra dọn dẹp căn phòng bên cạnh. Kim nấu nước pha cà phê, 2 đứa ngồi nói chuyện tầm phào:
- Uống đỡ cái này, nước gạo rang chứ cà phê gì! Mua của lão Thảnh lấy từ Rạch Giá về . Lão Thảnh là chủ câu lạc bộ ở đây. Nói câu lạc bộ cho sang thực ra nó là cái quán tạp hoá chạp phô bán hầm bà lằng. Đợi nay mai, chuyến ghe chợ về, thằng Quang mới mang cà phê ngoại thơm ngon từ SàiGòn mang xuống.
- Ở đây đi chợ tận Rạch Giá? Danh hỏi.
- Đúng vậy!- Kim nói - một công hai ba chuyện. Trước hết, mình trực thuộc vùng 4 Duyên Hải, chịu trách nhiệm an ninh chống lính Cộng Sản miền Bắc xâm nhập cùng nguồn tiếp tế lương thực, vũ khí của chúng . Đơn vị mình chịu trách nhiệm ngoài biển từ cửa sông Gành Hàơ, qua mũi Cà Mau lên tận cửa sông Ông Đốc. Vùng này vừa biển động, sóng gió nhiều khó đi, vừa là mật khu của tụi nó rất nguy hiểm. Đường đi về thị xã Rạch Giá an toàn hơn, đặc biệt cho nhân viên mình đi và về phép, thực phẩm ở đây cũng tương đối rẻ hơn vùng Cà Mau chó ăn đá gà ăn muối này. Tiện lợi nhất là nằm ngay cạnh trung tâm yểm trợ Rạch Sỏi, nơi sửa chữa , bảo trì cho ghe thuyền cùng nhận đồ tiếp liệu, nhu yếu phẩm cho đơn vị. Một chuyến ghe chợ trung bình đi về mất khoảng tuần lễ. Đôi khi lâu hơn vì trở ngại thời tiết hoặc sự bảo trì sửa chữa ghe thuyền cần thêm thời gian. Những lúc đó ở đây đói dài người. Mới thấm thía câu: mong như mong mẹ về chợ. Chuyến ghe này cũng sắp về trong nay mai. Gần tết rồi phải lo về sớm để chuẩn bị đón xuân chứ. Hôm nào ghe về tới cũng như ngày hội vậy.
Bữa cơm trưa trong phòng ăn của sĩ quan , trên chiếc bàn dài chỉ có 4 người: Tấn, Kim, Thành và Danh. Những vị khác đang công tác ngoài vùng hay còn nghỉ phép. Trên bàn, chỏng chơ một thau cơm, một tô đựng chao dầm ớt và một dĩa rau cải trời, một thứ rau mọc hoang, có lá giống như lá cải, nhưng trên mặt có lớp lông mịn, ăn hơi nhám cổ và không mùi vị. Tấn nói với Danh:
- Sống ở đây, những ngày chờ ghe chợ về ăn uống cực khổ vậy đó. Mới đầu cũng khó chịu, nhưng riết rồi quen. Được cái sống an bình. Sống nhiều chứ ăn thì bao nhiêu.
Kim xen vào:
- Giờ đã thấm câu vè tao đọc hồi sớm chưa? Chờ đó, còn thiếu nhiều thứ nữa, chưa hết đâu.
- Thôi, qua chuyện khác đi - Tấn nói - cứ chuyện ăn uống hoài nuốt không vô. Mày có biết tại sao trong huy hiệu của đơn vị có cái tên Hải Đảo Giáng Tiên không?
Danh lắc đầu. Tấn kể:
- Đây là một đảo có khí hậu trong lành, cây cối tươi mát, khác hẳn với đất liền chỉ cách vài dăm đường toàn vùng nước mặn đồng chua và đầy muỗi mòng đỉa vắt. Rừng núi trên đảo này hiền hoà và có dáng dấp của một cánh rừng thưa trong vùng ôn đới Âu Châu hơn là rừng rậm nhiệt đới. Rừng xào xạc lá khô rơi, bước đi nghe lạo xạo , không có cái cảm giác ẩm ướt nồng nặc mùi nát mục của lá. Ăn uống cực khổ thật, nhưng ở thì sướng tiên. Trong khi miệt Cà Mau này nổi tiếng với nhiều muỗi đến có thể bốc được thì trên đảo này ngủ không cần mùng màn, mùa hè không có một con, mùa mưa thì thỉnh thoảng mới nghe một hai tiếng vo ve. Dòng nước suối ở đây mới tuyệt, vì thế có tên là Suối Tiên. Mọi người trên đảo đều dùng nước suối để ăn uống tắm rửa , không cần đun sôi tẩy trùng mà hằng bao nhiêu năm chẳng ai đau ốm bịnh hoạn gì. Theo truyền thuyết xưa được kể lại, khi chưa có dấu chân người, các tiên nữ trên trời, những lúc rảnh rỗi thường xuống chơi đùa tắm giặt trên dòng suối này nên đã để lại hương thơm và sự dịu mát cho nguồn nước, hay vì dòng nước quá thơm mát đến cả tiên nữ cũng mê mẩn..Kể ra thì cái nào cũng có lý. Sau này, khi có tàu đánh cá khám phá ra nguồn nước ngọt thần tiên này , rồi loan báo cho nhiều người khác đến lấy, làm mất sự bình lặng và thoát tục của đảo. bầy tiên nữ bỏ suối không trở lại nữa, trước khi đi còn cảnh cáo : sẽ có một ngày đảo gặp một tai hoạ. Đơn vị chúng ta lấy tên Hải Đảo Giáng Tiên có lẽ theo truyền thuyết đó. Sau này, ghe thuyền đánh cá đến lấy nước thường hay có sự tranh giành ẩu đả nên thời Đệ Nhất Cộng Hoà, chính quyền gửi một toán lính bảo an ra trấn giữ an ninh trật tự. Toán lính này thiếu trách nhiệm, bê bối chểnh mảng việc canh gát, nên có một ngày, một bọn đặc công viêt cộng giả dạng dân chài, trà trộn vào đám ghe thuyền ghé vào đảo lấy nước rồi trốn ở lại trên núi, một vài tên gài bán cho lính rượu có trộn thuốc mê. Đêm về chúng tấn công ,đám lính say sưa không canh phòng bố trí , bị chúng dùng giết sạch toàn thể tiểu đội trên dưới mười người. Chính quyền được cấp báo đến tiếp cứu thì quá trễ. Sau khi tiêu diệt bọn đặc công 4, 5 tên chiếm lại đảo, sự canh phòng được giao lại cho lực lượng hải thuyền, sau này sát nhấp vào quân chủng Hải Quân thành đơn vị duyên đoàn chúng ta ngày nay. Cái eo núi, một trong hai nơi xảy ra cuộc thảm sát ấy bây giờ có cái tên là Ngã Ba Đầu Sọ.
- Ghê quá ! Ờ mà sao lại có ngã ba trên đảo? – Danh hỏi. Kim thay Tấn trả lời:
- Cạnh bãi chứa dầu có một con đường tráng nhựa rộng hơn ba thước cho xe chạy lên trên đỉnh núi. Mày thấy đó, đảo này có 2 đơn vị trú đóng: Duyên Đoàn mình đóng đô ở dưới chân, trên đỉnh núi một đơn vị khác là Đài Kiểm Báo (ĐKB)với radar là con mắt thần của mình, nó có nhiệm vụ quan sát toàn vùng biển trách nhiệm,dò tìm, theo dõi và báo cáo các hành động ghe thuyền có tính khả nghi đang xâm nhập hoặc hoạt động cho Cộng Sản. Chúng ta có nhiệm vụ tuần tra ngoài biển. Con đường được làm cho xe chạy, nhưng ít xử dụng vì hai chiếc xe thường hư hỏng , không có đồ thay thế sửa chữa. Đó là con đường chính. Con đường khác là một lối mòn ngay phía sau doanh trại này. Đây là lối tắt leo núi để đi qua khu gia binh phía bờ Nam. Đi lối này phải leo trèo qua những mỏm đá, nhưng được cái mát mẻ và đoạn đường ngắn hơn con đường chính . Hai con đường gặp nhau ngay trên đỉnh dốc của lối mòn qua bờ kia nên đươc gọi là ngã ba, đúng ra phải gọi ngã tư mới phải. Chiều mát, tao sẽ đưa mày qua đó, đến thăm “gia cư cho biết sự tình”. Có một lều bán quán, cà phê chả ra gì, ít ra bên đó còn nghe tiếng đàn bà. Bên này toàn đực rựa.
Bữa ăn trưa qua đi lặng lẽ. Cũng may, cái tủ lạnh cũ còn tốt, ít nhất, mỗi người cũng được ly đá lạnh tráng miệng. Kim quay qua hỏi Tấn:
- Này ông phó, chiều nay mình qua bãi Nam thăm gia đình binh sĩ? Tết nhất đến nơi rồi, cũng nên đi uỷ lạo chúc tết họ chứ?
- Thôi, mày đi được rồi, đưa thằng Danh qua cho nó biết. Tao đang bận. Cái chương trình tổ chức ăn Tết cho đơn vị chưa xong mà đã gần đến ngày rồi. Để tao làm cho xong đêm nay, ngày mai có lẽ ghe chợ và ông Phùng về tới. mình bắt đầu là vừa.
- Thôi được để tớ đi. À, để gọi báo cho Hùng biết.
Kim nói với Danh:
- Hùng là sĩ quan trưởng ngành truyền tin mật mã. Nó phải ở làm việc bên bãi Nam vì đài truyền tin nằm bên đó. Hắn chỉ qua đây chào cờ vào mỗi sáng thứ Hai và vào những ngày có họp . Vì thế Hùng kiêm chức trưởng khu gia binh luôn .Hắn nhậu chì lắm. Điện thoại cho nó trước không chừng có chút lai rai .
Buổi chiều, khi hết giờ làm việc, nắng đã dịu, hai đứa cầm gậy leo núi lên đường qua bãi Nam. Tới ngã ba Đầu Sọ là bằt đầu xuống dốc. Kim chỉ vào dãy nhà bỏ hoang còn tốt nguyên và nói:
- Đây là nơi xảy ra thảm kịch năm nào. Nghe kể ai cũng ghê. Bởi vậy, đám thầu Mỹ cố công cất thêm một dãy nhà thật khang trang mà không đứa nào chịu ở. Có đứa đêm hôm đi từ trên đỉnh núi xuống, về kể lại. Khi đi ngang qua đây , thấy có bóng không đầu, trên tay còn bê cái đầu lâu nên sợ quá ù té chạy. Chuyện thật giả không biết, nhưng nhà cất xong cứ bỏ hoang từ ấy tới nay.
Lối mòn đi xuống bãi khá dốc, nhiều khi phải bám vào hai bên vách đá mà trèo. Con suối Tiên róch rách chảy qua lớn hơn bên bãi Bắc nhiều và nằm ngay giữa trại, có một sân chơi khá rộng có hai sân bóng chuyền được bao quanh bởi những dãy nhà lợp mái tôn vách ván. Một cầu gỗ một nhịp nhỏ nhưng chắc chắn bắc ngang dòng suối, nối kết hai bên bờ thành một doanh trại. Hùng ở ngay căn phòng truyền tin tại dãy nhà nằm kế bờ đá được dùng làm bến. Hắn đưa hai người đi thăm viếng chúc Tết một số gia đình ở phía trong. Hắn bảo lúc này kiếm ra được giọt rượu còn khó hơn lên trời, thôi đi uống cà phê vậy.
Ba người kéo nhau ra cái quán duy nhất có cái tên rất lạ là Ò E hay Tò Te gì đó. Hùng giải thích: chúng nó sống ở đây thì giờ thì nhiều , chẳng biết làm gì ngoài cái chuyện tò te ấy, cái tên quán cũng phải lạ đời để quảng cáo, hấp dẫn đám trai tơ chưa vợ bên bãi Bắc mò qua. Thằng Hưng, trung sĩ, làm chủ quán , vừa là nhân viên ban tâm lý chiến, vừa là hiệu trưởng ,hiệu phó , kiêm thầy giáo duy nhất cho đám con nít học ba lớp trường làng, lại vừa nuôi heo.Giờ hành chánh, Hưng đi dạy học. . Đám trẻ chừng hơn hai chục đủ cỡ đứa gom lại trong một gian nhà, anh ta bao dạy trọn gói. Hết giờ làm việc thì lo chăm sóc nuôi heo cho đon vị ăn Tết, khỏi trực gác. Tiện thể,anh làm hai chuồng, một cho tập thể, cái kia nuôi heo riêng cho gia đình.
Kim xen vào:
- Thằng Hưng cứ qua tao đòi chi phí cho việc chăn nuôi, mà nó nuôi heo riêng và vợ nó mập như cái thùng phi, còn bản thân nó và đàn heo chung thì ốm như que tăm, chẳng hiểu tại sao? Thời ông Lực, chỉ huy trưởng cũ còn ở đây, cha này thuộc loại sĩ quan lực lượng giáo phái cải cách qua nên hành xử cũng rất không giống ai. Mỗi khi lính dưới quyền phạm lỗi, lão có những lối phạt kiểu giang hồ rất tức cười. Một lần Hưng làm gì đó sai trái, lão bắt nó phải cõng vợ chạy mấy vòng sân cờ. Tôị nghiệp thân nó ốm yếu đâu chịu nổi sức nặng cả tạ của mụ vợ. Mới được vài bước đã lăn ra đi không nổi. Năn nỉ lão không tha. Cuối cùng lão bằng lòng cho chị vợ được làm thay, cõng chồng đi cho hết vòng. Cả đơn vị thỉnh thoảng lại được dịp ôm bụng cười.
Cà phê như nước gạo rang, nhưng cũng có nhạc sập sình từ cái máy cát – sét cũ rich,. câu được ít khách chắc cũng nhờ con bé Hương, con gái đầu lòng của Hưng. Nó là đứa con gái lớn nhất trong đám trẻ, đã học hết chữ của bố không còn lớp theo nên ở nhà phụ mẹ bán quán. Năm nay nó đã mười ba , mười bốn, ngực mông bắt đầu nẩy nở, không đẹp lắm, cũng vẫn là bông hoa dại độc nhất của rừng. Mấy cu cậu trai tơ bên bãi Bắc vẫn cứ mò sang, chẳng làm gì được, nhưng cũng ngồi rửa mắt và…nuốt nước miếng.
Trời chạng vạng tối. Kim hối thúc ra về:
- Thôi về, chút xíu nữa tối mịt, leo dốc nguy hiểm .
Khi quay ngược trở lại tới ngã ba Đầu Sọ, trời đã lấp lánh ánh sao.Kim hỏi Danh có thấy sợ không? Danh nghĩ: một mình thì không biết, có hai người đi chung thì không có cảm giác gì. Nhìn lên trên đỉnh núi, ngọn hải đăng đã bắt đầu quay, ánh sáng chiếu tứ phía. Kim vội nói:
- À, còn một chuyện khá lý thú về hải đảo này nữa mày cần biết. Mà chuyện này có thật chứ không phải huyền thoại đâu. Đó là câu chuyện về viên chúa đảo.
Danh ngạc nhiên:
- Chúa đảo nào? Mày không muốn nói đến ông Phùng, ông xếp của mình, người có cấp bậc cao nhất trên đảo hiện nay chứ?
- Không phải ông Phù ng. Thế mới ly kỳ. Đừng nôn nóng. Mai mốt sẽ biết.
Hai người lững thững xuống đồi. Đêm hải đảo tĩnh mịch và bình yên quá. Chỉ nghe tiếng gió lao xao lá rừng. tiếng sóng vỗ chập chùng. Hiệp định Paris về ngưng bắn chuẩn bị có hiệu lực. Mong sao cho cả một giải non sông có được sự an bình giống như khung trời tí teo này. Danh chợt nghĩ: một hòn đảo chỉ có bầy tiên xuống vui chơi tạm thời ,vẫn có được sự an lành, còn đất nước có niềm tự hào của giòng giống tiên rồng, dân tộc lại chưa có được một ngày an vui thái bình?


HAI : Cô độc trên hoang đảo.


Già Bông là một người khá độc đáo. Ở vào lứa tuổi trên bốn mươi, ông là người cao tuổi nhất trên đảo. Không kể đến đám vợ con lính ở trại gia binh, ông là người duy nhất trên đảo không phải là lính, dù lúc nào cũng mặc bộ tray di trên người . Thực ra, ông chính là một công chức trực thuộc một bộ (hay phòng) có trách nhiệm quản lý điều hành ngọn hải đăng trên đỉnh núi.Già Bông còn là người ở trên đảo lâu năm nhất. Có mặt từ những ngày xa xưa với tiểu đội lính bảo an, già Bông may mắn sống sót sau cái ngày bi thảm sát hôm ấy. Ông thoát, vì lúc đó ông đang ở trên đỉnh núi chăm sóc sửa chữa ngọn đèn bi hư. Phần khác, thuở ấy ông chưa biết say sỉn, nên đã không có mặt trong cái bữa nhậu kinh hoàng đó. Mấy tên đặc công Việt Cộng thì có thể không biết hoặc quên sự có mặt của một công chức trên đảo, hoặc là biết, nhưng không đủ người và chưa có thì giờ leo lên tận đỉnh để “hỏi thăm sức khoẻ” anh công chức dân sự độc nhất . Sau này ông kể lại: đêm đó, nghe nhiều tiếng súng nổ dưới chân núi, ông thấy rất lạ , vì trên đảo xưa nay vẫn bình yên, ít khi nào nghe tiếng súng về đêm , chỉ thi thoảng vài ba tiếng súng lẻ tẻ ,thường là vào ban ngày ,của chính ông hoặc một hai người lính đi săn trong rừng,. Do đó ông gọi điện xuống để hỏi tin tức, nhưng máy bị cắt. Biết có biến, ông vào phòng vơ vội bộ máy điện đàm và cây súng cạc bin được phát giữ phòng thân trốn vào rừng và liên lạc ngay về đất liền cầu cứu. Bộ chỉ huy tổng đài nhận được tin báo liền cấp tốc liên lạc với giới chức có thẩm quyền tại tỉnh đem quân đi tiếp cứu. Một trung đội lính được gửi tới đổ bộ lên đảo ngay trong đêm, bao vây phục sẵn xung quanh doanh trại và những nơi quan yếu. Cuộc tấn công bắt đầu khi trời vừa hừng sáng. Toán đặc công còn đang say máu chiến thắng, không ngờ cuộc phản công quá mau lẹ bất ngờ , hai tên bị hạ tại chỗ, mấy tên còn lại giơ tay đầu hàng. Trung đội tiếp cứu thu gom các nạn nhân gồm 8 lính bảo an và 2 tên đặc công CS bị giết đem vào bờ chôn cất, sau đó ở lại canh giữ đảo cho đến ngày có lệnh bàn giao nhiệm vụ cho lực lượng hải quân dồi dào hơn về phương tiện bảo vệ đảo. Già Bộng thì lại quay về ngọn hải đăng của ông. Dưới thân phận một công chức hạng quèn trong một tỉnh lẻ, cuộc đời của ông cùng một số bạn đồng sự thường bị chi phối ảnh hưởng với công việc. Đồng lương không cao lắm, tạm đủ ăn trong cái thời buổi khó khăn gạo châu củi quế, không sang trọng gì, cũng chẳng chết đói. Điều quan trọng hơn cả là cuộc sống gia đình tương đối ổn định, có đồng ra đồng vào. Cuối tháng, chẳng may có thiếu hụt chút đỉnh thì hàng xóm hay bạn bè cũng sẵn sàng cho vay mượn giật gấu vá vai, vì ai cũng biết hết tháng lại có tiền lương, nợ nần sẽ được thanh toán sòng phẳng đâu vào đấy. Ngặt một nỗi, không ai muốn phải đi làm việc ở một nơi xa gia đình, xa vợ con, nhất là nơi đó lại làm một chỗ khỉ ho cò gáy gần như hoang đảo, phương tiện đi về thật khó khăn. Nhóm đồng sự có tất cả 4 người. Lúc đầu, họ chia nhau luân phiên công tác, mỗi người sẽ ra phục vụ trên đảo 3 tháng. Sau đó vì thường có sự chậm trễ trong việc thay thế nhau, nhất là khi thời tiết xấu, biển động hay có bão, hoặc trong những dịp lễ tết, người đang thì hành công vụ trên đảo có khi phải ở lại đến 4,5 tháng, nên thường có sự bất hoà cãi cọ.
Thế rồi, trong một lần già Bông đang ở đảo và hết nhiệm kỳ, người đồng sự phải ra thay thế ông có người thân đau nặng đi nhà thương và cần săn sóc, anh này lên tiếng yêu cầu ông giúp đỡ bằng cách ở lại đảo thêm một kỳ hạn. Bù lại, anh ta đền ông một món tiền . Là một người tốt bụng, lại hay cả nể,già Bông nhận lời. Từ đó, những người còn lại chợt nảy ra ý nghĩ: mỗi người hàng tháng góp tiền lại trả cho già Bông, để ông ở lại làm việc luôn ngoài đẳo. Họ sẽ chỉ ra thay thế ông một năm một lần vào những ngày ông nghỉ phép thường niên.Già Bông suy đi tính lại, ở đây cô độc cũng đã quen , lại thêm có số tiền phụ trội, thêm tiền công tác xa nhà và trợ cấp đắt đỏ, gần như ông lãnh tới hai đầu lương, tha hồ cho” má nó” tiêu pha mua sắm. Thế là ông chấp nhận. Lúc đầu, vợ ông cũng ngại. Đồng tiền làm bà chiều ý, chịu ra đảo sống với ông một thời gian. Sau này, cô liêu , buồn tẻ quá, lại sắp sửa sinh đưá con đầu lòng, bà trờ về không ra nữa. Lâu lâu , bà chỉ theo chuyến ghe thuyền đến thăm ông chừng một, hai tuần. Lúc đầu ông cũng hơi buồn. Riết rồi quen.Nỗi buồn vơi đi, Ông về thành phố ký giấy tờ cho vơ con tháng tháng thay mặt lãnh lương luôn, ông sống hoà đồng với đám lính độc thân trên đảo. Ngày ngày không xuống bãi giăng câu thì cũng miệt mài săn bắn trong rừng. Ông miệt mài lặn lội đến từng hốc đá, từng bụi rậm trên đảo
Ông là người duy nhất nắm được mọi xó xỉnh của hoang đảo như khu vườn của riêng ông, nên bạn bè tặng ông danh hiệu viên chúa đảo. Đềm đêm, ông không quên nhiệm vụ điều hành ngọn hải đăng. Khi cảm thấy cô đơn, nhớ gia đình , nhớ vợ con, ông bắt đầu nhập vào đám lính tập tành tìm quên trong men rượu đắng. Già Bông có tài kiếm mồi. Không có con cá béo thì cũng vài anh kỳ đà,chú ruà biển (con vích),dăm ba xâu dơi quạ hay hàng chục loại mồi lạ lùng khác. Đám lính đi kiếm rượu. Ông đi kiếm mồi. Chiếu chiều rảnh rang, họ tụ tập nhau lại chuẩn bị cho bữa tiệc quên ngày tháng. Thiếu rượu thì tiệc chay, tiệc trà, một sinh hoạt không thể thiếu.Từ những ngày chỉ nhấp một chút men lên môi đả thấy mặt trời đỏ gay, ông trở thành đệ tử của Lưu Linh , men rượu không còn vật ngã được ông. Điều khó khăn bây giờ là làm sao có rượu …
Lập ngưng kể cho Danh nghe về viên chúa đảo để đi pha cà phê vì nước vừa sôi tới:
- Để tao pha ly cà phê uống cho tỉnh người cái coi. “ Giả” ( tiếng lóng thân mật gọi ông già của miền Nam) đánh hơi hay lắm. Nghe có hơi rượu là” giả” bay tới bây giờ.
x x x
Lập mới trở về từ vùng công tác sáng nay khi Thành ra thay thế. Vừa gặp mặt Danh, Lập chặn họng ngay:
- Dân” Tắc Kè con”(2) phải không mậy?
- Ưà! Mà sao chưa nghe giọng nói mà ông biết?
- Biết chứ sao không! Cọng rau muống lòi ra ngoài đít kìa! Không ở ngoải với “bác” mà chui vô đây để bị đầy lên hoang đảo này tội nghiệp vậy?
- Thội xạo hoài đi cha nội ! Nhà nó là loại “ địa chủ phản động”, ở ngoải chắc mất mẹ nó cái chỗ đội nón rồi. - Kim xen vào – Này! Có đồ gì mang về không? Tụi tao ở nhà đang đói khát đủ mọi thứ đây!

- Hổng có gì ráo trọi! Tụi bay ở nhà ráng bịt miệng lại tu đi. Đòi hỏi nhiều quá. - Lập nhìn lên tường thấy bàn thờ minh. - Á à! Tên nào dám tự động làm bàn thờ cho tao đây. Còn khuya mấy em ơi! Số anh hai còn thọ lắm. Dẹp trò giễu dở đó đi. Chân anh hai tụi bay còn lấm lem, chưa có chịu rửa thì làm sao leo lên bàn thờ ngồi được.
Nói rồi, Lập gỡ tấm hình của minh trên bàn thờ xuống, lôi trong túi ra nột gói thuốc Capstan trắng múốt, rút ra một điếu chân lửa, rít một hơi dài rồi thở khói thơm ngát. Kim kêu lên:
- Úi chà chà! Buồn ngủ gặp chiếu manh, đã thiệt! Tao đang cần” nhớ đào không có thuốc, khiến nàng cho leo cây”(3) đây!. Đi lượm “cào cào” (tàn thuốc) thì ể mặt bầu cua quá. Coi nào!
Con Anh Phá Sản Tại Anh Ngu.
Chừ Anh Phải Sống Tiền Anh Nợ.
- Dở! Nghe anh hai đây : Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát
Chờ Anh Phủi Sạch Tội Anh Ngông
- Chưa đạt bằng câu này: Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng
Còn Anh Phần Số Tuổi Anh Nghèo(1)
Nói vậy, nhưng Lập quăng gói thuốc lên mặt bàn, mở túi xách lấy ra một bình nhựa, giơ cao lên nói:
- Tao ghé quán nhỏ Lệ ở cửa Bảy Hạp gom được mấy lít “nước mắt quê hương”. Cái này để dụ ông già chúa đảo xuống núi đây. Để tao lên máy hú”giả” một tiếng.”Giả” thính mũi lắm. Không chừng ở trển ổng đã bắt thấy mùi rồi. Thằng Danh mới về đây cần biết, mai mốt đi công tác có ghé quán con Lệ mua bán ăn nhậu gì cũng phải coi chừng đó. Con nhỏ có khả năng làm trò mỹ nhân kế để lấy tin tức tình báo hay giao liên cho bọn Việt Cộng đó.
- Vậy sao? – Danh hỏi. – Mà con nhỏ ngon lành không?
- Cũng đại khái . Sắc đẹp bình thường không có gì nổi trội. Có điều là dân buôn bán duy nhất trong một vùng dân cư lam lũ, ở trong nhà nên trắng da dài tóc, quần áo có bảnh bao tha thướt hơn,trong khi đàn bà con gái trong vùng toàn ăn mặc áo vải quần thâm , da dẻ mốc thếch vì gió biển nước mặn, sự khác nhau có thế thôi. Trong cái xứ mù, thằng chột làm vua. Coi như nó là hoa khôi trong vùng . Nhưng coi chừng dính vào nó có ngày “tán gia bại sản” .
- Thôi ông ơi! Cứ làm như tôi là cái thằng thấy gái là mắt sáng lên vậy?
- Có mê không ai mà biết! Báo động trước để khỏi làm mất mặt Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, xuất thân từ trường NhaTrang thuỳ dương cát trắng truyền thống. Con Lệ chỉ để ngắm chơi cho vui. Cần giải quyết đã có bà Tư Ấn Độ.
- Sao lại có cả Ấn Độ Chà Và trong vụ này nữa?
- Ai biết! - Lập nói -. “Mẻ”(4) cao lớn, tuổi xồn xồn, nước da đen giòn như tụi Ấn thì gọi đại là bà Tư Ấn Độ. Không mỡ xài đỡ đèn cầy. Mẹ này thì miễn có tiền là OK hết . Trẻ già xấu đẹp gì mụ cũng tiếp. Khách “đi “ xong, một tay “mẻ” chìa ra nhận tiền, tay kia xoa đầu khách hỏi: “ Sướng không con? Mai mốt nhớ ghé thăm má nữa nghen.”
Lập nói một hồi rồi bỏ đi lên phòng hành quân. Kim kể tiếp:
- Tao không đi tuần tiểu, nhưng hàng tháng đi công tác tiếp vận cũng có ghé ngang, có biết mặt con nhỏ. Thực ra, quán của nó chỉ là một cái chòi cất trên mặt nước giô ra ngoài bờ biển , có được ba bốn cái bàn. Quán chỉ bán độc hai món hủ tiếu và mì tôm, thứ tôm nội của ghe cào mới kéo từ dưới biển lên. Hàng chủ yếu là các thứ giải khái bia rượu nước ngọt và cà phê. Con Lệ đâu biết nấu nướng gì. Chủ yếu õng ẹo với đám khách hàng toàn là lính chiến xa nhà tới ngắm nó rửa mắt thôi, cư dân trong vùng đâu có mấy ai vào quán nó.Người ta bảo quán đó nấu ăn rất dở.Họ nói ăn ở nhà còn ngon gấp bội Có điều nó dùng sắc lượn qua lượn lại để moi tiền thiên hạ hay vừa làm kinh tài vừa lấy tin tức cho Việt Cộng thì ai cũng chỉ đoán chừng vậy thôi, không có chứng cớ nên quán nó vẫn mở phây phây.
Danh nhớ lại, không đầy một năm trước, trên sông Cửa Lớn, căn cứ Năm Căn cách đây không xa, một con tàu lớn (HQ 329 – 1973) đã bị chìm vì trúng thuỷ lôi của Việt Cộng trong một đêm mưa gió tầm tã khi đang cặp sát ngay trên bờ một quán gío bán cà phê của một cô bán quán khá xinh mới mở trước đó vài tuần lễ. Cô gái bán quán được coi là nguyên nhân của vụ việc đã biến mất từ lúc nào ngay trong đêm xảy ra vụ nổ .
X X X

. Có bóng người đổ dài đi xuống trên con đường đưa lên núi.Kim lên tiếng : - Chúa đảo đó! Lại bái chào chuá đảo đi. – Quay qua ông, Kim nói: - Đây là Danh, sĩ quan mới thuyên chuyển về đơn vị, ông làm lễ gia nhập đảo cho hắn đi!
Trước mặt Danh là một ông già dáng chừng trên duới ngũ tuần . Ông mặc trên người bộ đồ trận màu ô liu đã cũ. Chiếc áo dài tay được xắn lên dường như hơi rộng so với sức vóc, chiếc quần đã được cắt hay xé đi phần ống phía duới đầu gối, gấu rách te tua. Khuôn mặt ông khắc khổ xạm nắng, khuất dưới mái tóc dài che kín cổ. Trên đầu ông đội một cái mũ rộng vành cũng tả tơi không kém. Vai ông đeo một khẩu súng carbin, trong khi tay trái cầm một xâu chừng chục con dơi quạ. Trông ông có hình ảnh của một người sống trôi dạt trên một hoang đảo hơn là cái uy nghi của một ông chúa. Một Robinson thời đại. Ông xua tay lia lịa:
- Hổng dám! Hổng dám! Tôi là dân ngu khu đen có chức tước như mấy ông đâu mà cứ kêu tôi là chúa này chúa nọ vậy., Tôi chỉ làm thầy tớ chứ có làm chúa ai bao giờ. Có bà vơ tôi bả làm chúa tôi thì có. Mà bả đâu có ở đây! Chào mừng thiếu úy mới tới đảo. Tôi hổng biết, coi còn trẻ quá thì kêu đại ông là thiếu uý, có sai đúng gì thông cảm nghen.
- Không có sao bác à! cứ coi như con cháu trong nhà .
- Úy trời! hổng được! – Ông già chúa đảo nói. – tôi ngó phong sương vậy nhưng tuổi tác chưa cao, chừng hơn bốn chục, kêu chú đã là quá lắm rồi, Bác cháu chi nghe tổn thọ quá.
- A ha ! Cóc mở miệng. - Lập từ xa la lớn – Ông bạn đời, bạn nhậu của tôi hôm nay sao nói năng hoạt bát dữ. Bình thường, cạy miệng ông không nói. Ông thường hay lý luận: nói nhìều bay hết hơi men. Bữa nay ông nói được câu văn dài như vậy là thằng Danh tốt số, là ông có cảm tình với mi rồi. Nói nhỏ cho nghe, ổng có hai cô con gái rượu ngon lành lắm. Mi dám lọt vô mắt xanh của ổng rồi đó nghen. Mà thằng này cũng tài khôn tổ mẹ. Đúng là đồ”Bắc Kỳ con”lém lỉnh. Mới gặp ông đã xưng bác bác cháu cháu nghe ngọt sớt. Để mai mốt đổi qua gọi ba xưng con cho dễ phải hôn? Ma lanh dữ!
Quay qua già Bông chúa đảo, Lập tiếp:
- Có mang mồi xuống phải không ông già? Y da! mấy chú này mập ghê, đủ để thanh toán mấy lít “trắng”. Tính mần gì nhậu đây chúa đảo?
- À! tiện trên đường đi xuống, tôi ghé “cái kho lương thực thiên nhiên” của tôi trong rừng “vớt” nhẹ chục em đem về đưa cay. Thứ này phải biết mần cho kỹ mới nhậu được. Để tôi lột da bỏ đi máy cục xạ trên thân chúng, rồi một nửa đem xào lăn đểlai rai, một nửa đem nấu cháo đậu xanh vừa để giải nhiệt vừa giải rượu luôn. Thời tiết đang nóng nực, có thêm rượu càng nóng dữ, vậy mà làm một tô cháo dơi nấu đâu là mát lạnh thấu trời, đi ngủ phải đội nón.
Kim cướp lời:
- Nè! Ông sống độc thân ở đây mà cần chi nón áo? Đêm đêm nằm mơ có nước bắn máy bay giả tưởng chứ làm gì có mục tiêu? Đã lâu rồi bà xã chưa ra thăm phải không? Tết nhất tới rồi, nay mai ghe chợ về chắc có bả ghé thăm quá!
- Cũng mong vậy. Tôi cũng đang chờ chuyến ghe về có bả đi theo để coi sấp nhỏ lóng rày sống ra sao?
Nói đến đây già Bông có vẻ hơi buồn, ông đang nhớ đến vợ con, hẳn vậy.
- Xời ơi! Chúa đảo gì mà tình cảm thế! Thôi, vui lên đi. Thế nào củng có bả trong chuyến ghe về tới nay mai. Chuẩn bị súng ống là vừa.
- Uý trời! – Ông Bông đỏ mặt , tính ông vẫn thế - tôi già hết xí quách, còn làm ăn được gì nữa đâu mà súng với đạn?
Kim trêu chọc thêm:
- Thôi ông ơi! Chúa đảo gì yếu xìu quá vậy? Ông còn nhai cơm, chưa phải húp cháo mà! Đất có thổ công, sông có hà bá. Chúa đảo phải có cái uy chứ! Có cái uy dũng nào bằng sức mạnh duy trì giống nòi? Đùa chút thôi, cạn chung này cho đẹp cái coi. – Kim đưa cho ông ly rượu mới rót đầy - Nhậu thoải mái đi. Rồi tối nay ngủ lại đây qua đêm chờ sớm mai đón ghe về luôn. Đi chuẩn bị súng ống để mình đi săn một bữa liên hoan đãi bả .
- Đâu được! Cỡ nào tôi cũng phải leo về đỉnh, còn công việc đâu bỏ bê được.
- Không sao đâu! Để tôi gọi điện lên trển nhờ mấy thằng em Đài Kiểm Báo trên đó giúp lo cho ngọn hải đăng. Đằng nào tụi nó cũng phải canh gát mà.
Già Bông nhất quyết từ chối:
- Mấy cậu thấy đó. Bao nhiêu năm làm việc tôi chưa bê trễ. Không có ngọn đèn của tôi, ghe tàu có thể bị lạc lối mà gặp nguy hiểm. Trách nhiệm ấy tôi chịu chứ ai. Thôi để tôi về, mai chuyến ghe về tôi lại xuống, mấy hồi.
- OK! Về thì về, nhưng lúc này còn sớm cứ nhậu thoải mái. Tối , tôi bảo mấy thắng em đưa ông về. Bây gờ làm tô cháo dơi giải nhiệt lấy lại sức uống tiếp.
- Coi thường chúa đảo này quá vậy? – Ông ngửa cổ cạn một hơi ly rượu, khà một tiếng thật mạnh rồi tuyên bố - Chúa đảo sẽ lai rai với mấy em tới chiều tối, rồi sẽ lội bộ về “mình ên”, không cần mấy em đưa về. Cái hoang đảo này là nhà của “goa” , mấy chú vẫn coi “goa” là chúa đảo thì có xó xỉnh nào chúa đảo không rành mà cần người dẫn đường.
Có tiếng la chói lói từ phía phòng hành quân. Danh hỏi Kim có chuyện gì vậy? Kim đi ra .Một hồi quay trở lại cùng Lập nói với giọng vui vẻ:
- Đã liên lạc được với chuyến ghe chợ. Họ đang trên đường về. Có lẽ sẽ tới đảo vào tối nay. Tụi nó mừng quá nên la hét đó.
Ông Bông đứng bật dậy lắp bắp:
- Mấy cậu hhh. ỏỏỏ…iìi… giùm…ttt…ôôô…i coi bà…bà…xxxããã…của tôi có mặt ở trên đó k…h…ô…n…g???
- A ha ha ha ha hah, ông già chúa đảo cà lăm tụi bay ơi! Nói cho ông nghe nhé! Đây là bí mật quân sự không cho ông biết được. Ráng mà chờ thêm vài tiếng nữa, chúa đảo…ơi!

Chú thích:
(1) Các chữ đầu của những câu này ghép lại thành chữ C-A-P-S-T-A-N, một loại thuốc lá thơm rất nổi tiếng của miền Nam VN trước 1975.
(2) Tắc kè = Bắc Kỳ. Lối chọc ghẹo vui của người miền Nam đối với dân miền Bắc di cư 1954.
(3) Nhại lại 2 câu thơ của Hồ Dzếnh: “ Nhớ nhà châm điếu thuốc,
Khói buồn bay lên cây”
(4) Mẻ = con mẹ

Ba: Có phải là giấc mơ?


Buổi chiều, chuyến ghe chợ về tới. Doanh trại nhộn nhịp hẳn lên, hải đảo như bừng sức sống. Tiếng người đi lên xuống bãi chuyển hàng cười nói, gọi nhau ơi ới, y như một ngày hội. Người ta hỏi thăm nhau, chuyện trò về đời sống trong đất liền, trong thành phố. Chỉ có mìnhgià Bông là buồn, hơi buồn thôi. Bởi lẽ trong đám người trên ghe chợ từ Rạch Giá trở về không có vợ ông. Bù lại, Lan và Đào , hai đứa con gái rượu của ông lại có mặt. Chắc phải có chuyện. Thường thì mổi khi Tết đến, nếu ông không về được thì bà vợ lại cho các con về ngoại để ra thăm ông. Năm nay bà không đi, ông phải hỏi xấp nhỏ ra sao. Gặp 2 con, ông rất mừng, Chà! Kỳ này coi bộ tụi nó lớn bộn, mà xinh đẹp hẳn ra, làm ông cũng hãnh diện. Bởi vậy, mấy chàng lính trẻ độc thân cứ mò theo tán tỉnh Từ trên tàu, thấy cha đứng trên bãi chờ, Đào gọi ríu rít:
- Chị Lan ơi! Tiá đón mình trên bờ kìa. Tía!, tụi con này tía!
- Ồ! Lan Đào hai con, thế má đâu?
- Má bận không đi được nên bảo tụi con đi thế. Để chút xíu lên bờ con kể tía nghe. Mà sao lóng rày tía giống… Tặc Giăng vậy? Má thấy chắc bả hết hồn luôn.
- Có gì đâu bây. Tía ở đây nhớ má con bây ,buồn buồn để râu tóc phong trần chơi. Với lại, hồi trước bả cũng mê nhân vật Tặc Giăng lắm, đi coi phim về cứ đòi làm Giên của ông chúa rừng xanh ấy mà.
Già Bông ra cầu tầu phụ xách đồ đạc đưa lên bờ. Hai chị em đã được mẹ chuẩn bị cho khá nhiều đồ để ba cha con cùng ăn Tết: thực phẩm , bánh mứt kẹo cho ngày Tết có cả trái cây từ vườn nhà.Bà cũng không quên gửi cho ông mấy lít đế “Gò Công” thượng hạng và một ít rượu nếp than với lời nhắn nhủ riêng: có vui xuân cũng chừng mực thôi, để còn lo lắng chăm sóc cho 2 con gái . Ông sung sướng đưa 2 con lên bờ.
Có con ra thăm và ở lại ăn Tết là ông vui, nhưng trên ngọn hải đăng ở đỉnh núi nơi ông làm việc, chỗ ở quá chật chội, và leo lên leo xuống thật vất vả và bất tiện, ông chưa biết tính sao. Quay qua với Lan và Đào ông hỏi:
- Má khoẻ không? Có chuyện gì vậy?
Lan giải thích:
- Cũng không có gì, tía đừng lo. Ngoai không đươc khoẻ lắm,nên kỳ này má về quê thăm ngoại. Má dặn tụi con ra đây với tía. Rồi chừng nào có chuyến tàu về thì ba cha con cùng về để thăm ngoại luôn. Má có đến sở làm của tía để thông báo cho người tạm thế tía rồi. Có lẽ ít ngày nữa họ sẽ ra thế. Tụi con ra ăn Tết với tía rồi đưa tía về luôn thể.
- Được vậy cũng tốt. Để tía lên kiếm chỗ cho 2 con nghỉ ngơi. Đi tàu có mệt lắm không?
- Mệt nhưng mà cũng vui. Tụi con đi chơi thay đổi không khí.
Ba cha con kéo nhau đi lên. Gặp Lập trên đường đi, ông Bông nhắn hỏi Lập có giúp ba cha con ông một chỗ ở tạm thời được không, chứ e phải leo núi nhiều lần trong ngày, các con gái ông e không kham nổi. Lập bảo ông cứ yên tâm . gì chứ phòng ốc thì đơn vị vẫn có sẵn vài căn bỏ trống . Lập nói để đi trình báo cho chỉ huy trưởng Phùng một tiếng là xong.Anh đi một lát quay trở lại cùng với ông Phùng. Ông bảo:
- Ông Bông muốn ở căn phòng nào cứ dọn vào. Có mấy căn trống kế bên dãy phòng sĩ quan đó – Ông cười hóm hỉnh thêm - Chúa đảo muốn gì mà không được?
- Ông trưởng đùa vậy chết tôi . Lan, Đào 2 đứa con gái tôi chắc thiếu tá đã biết trên tầu? – Quay sang Lan Đào, ông bảo:
- Chào thiếu tá chỉ huy trưởng đi 2 đứa!
- Tía khỏi lo. Tụi con đã chào và trình giấy tờ lên thiếu tá từ trước ở tận Rạch Già lận. Nếu không làm sao được phép đi theo chuyến ghe tới đây được.
- Đúng rồi. Chúng tôi có nói chuyện với nhau rồi. Để tôi coi có ai giúp một tay phụ xắp xếp được không? – Ông quay qua hỏi Lập:
- Ông có rảnh giúp ông Bông một chút được không?
Lập trả lời:
- Giờ này đang phiên trực phòng hành quân nên tôi bận. Có anh Danh mới tới đây ít ngày còn rảnh rỗi, để tôi bảo anh ấy lo cho.
Lập đi vào phòng tìm Danh. Danh nói OK trong khi Lập bảo:
- Tên này thật tốt số! Vừa mới tới đã có cơ hội gần người đẹp. Lại được dịp kiếm điểm với ông già nữa chứ!
Danh trả đũa:
- Vừa thôi đàn anh! Để cho thằng em sống với chứ! Chưa có miếng mà đã có tiếng rồi?
Lập nheo mắt cười khà khà bỏ đi lên phòng làm việc. Danh đưa gia đình ông Bông vào một căn phòng phía sau để ba cha con xắp xếp vật dụng. Ông Bông dặn dò 2 cô gái theo lời chỉ dẫn của Danh, còn ông phải leo lên núi chuẩn bị thắp ngọn đèn hải đăng vì trời sắp tối. Ông bảo vừa đi , về và làm việc, rồi gửi gấm anh em trực máy coi chừng giùm cũng mất khoảng 2 tiếng. Chút xíu nữa lại tiếp tục lai rai, đêm nay hẳn phải vui. Nói rồi ông tất tả đi, dáng nhanh nhẹn hơn mọi ngày, như mới có thêm một liều thuốc bổ. Danh bảo 2 cô:
- 2 em chờ ở đây. Anh đi kiếm thêm ít giường nệm cho ba cha con, có vật dụng cá nhân nào sắp xếp được cứ làm trước. Anh trở lại ngay.
Danh lên phòng tiếp liệu nhờ trưởng phòng Kim cung cấp cho một ít giường nệm chăn mền. Khi trở lại thì Lan Đào đã xếp đặt gần xong. Nhìn Lan, anh nói:
- Cần giúp một tay không nào…Lan? À! Mà Phong , Thanh, Bạch , Hoàng, Xuân, Dạ, Ngọc, Ý…Lan. Em là Lan nào?
- Em là lan ruộng, lan vườn xa phố, nên chỉ đơn giản là Lan thôi.
- Thế sao? Biết đâu một ngày đẹp trời nào đó , em trở thành một nữ sĩ nào đó thì cần một cái tên thuộc loại lan chứ? Thôi, anh gọi là Li Lan nhé! Li Lan, Li Lan. Hợp với cánh lan rừng, lại có vẻ Tây nữa chứ, chịu không?
- Chị Hai chỉ muốn là…khoai lan(g) thôi – Đào trêu chị.
- Quỉ nè! – Lan gõ nhẹ lên đầu em – anh thích gọi tên gì đó cứ gọi. Với Lan thì tên Lan “mình ên” cũng đủ rồi.
- Thội , hai chị em thu xếp rồi nghỉ ngơi đi! Ngày mai rảnh lên núi chơi để coi lan núi lan vườn, lan nào đẹp hơn cho biết.
Danh chào từ giã hai người trở lên phòng làm việc. Lập ngẩng đầu lên chọc:
- Mới đó mà đã mết dữ ha! Thằng này số hên thiệt tình. Nhưng mà chọn một thôi đó nghen! Đừng có chơi trò hoa thơm đánh cả cụm là chơi gác anh em đó .
- Thì ông cứ nhào vô, ai cấm. – Danh đáp . Lập đáp:
- Thôi để nhường đàn em tụi bay. Tao tu rồi. Lâu nay chỉ làm bạn với rượu với thơ.
Rồi Lập cất tiếng ngâm nga:
“ Mênh mang thơ túi rượu bầu/ Cung đàn nửa nhịp, gịọt sầu nửa ly ./Trầm mình trong cõi vô vi/ An nhiên một kiếp cuồng si một đời…

X X X

Sáng chúa nhật, trời trong vắt không một gợn mây, báo hiệu một ngày nắng đẹp. Già Bông thức dậy sớm, qua phòng bên ngồi uống cà phê, nghe đài buổi sáng và tán gẫu với đám sĩ quan trẻ. Từ bữa hai cô con gái đến thăm viếng. già coi bộ vui vẻ , nói năng nhiều hơn trước. Bộ dạng con người cũng được chăm chút hơn dưới bộ cánh áo sơ mi sọc ngắn tay và chiếc quần tây sậm mầu, tóc tai hớt tỉa gọn gàng. Hớp một ngụm cà phê hiệu Meilleux Gout thơm ngát mùi bơ , rít một hơi điếu thưốc lá thật dài , già nói:
- Chằ,Cà phê ngon thiệt. Đồ ngoại có khác. Tối qua tôi có nhận được công điện của sở cho về nghỉ phép 2 tuần. Sẽ có người ra tạm thay thế trong ít ngày nữa khi có chuyến tầu. Như vậy qua tết sẽ dẫn đám nhỏ về luôn. Hôm nay trời đẹp. Tiện mình tổ chức đi rừng một buổi, trước là tìm ít mồi về nhậu tất niên, sau là kiếm vài ba lít mật ong nguyên chất mang về làm quà cho má bầy trẻ với ngoại của chúng nó. Thứ mật ong trên rừng này phải nói là tuyệt hảo, trị bá bệnh đó.

Nghe ông đề nghị, cả bọn nhao nhao đòi đi theo:
- Bữa nay Chúa Nhật rảnh, mình lên rừng đi picnic luôn thể?
Già Bông chối phắt:
- Không được, kéo nhau cả đám thế này thì động rừng, thú chạy hết trơn, còn săn bắn gì được. Với lại đi săn thì phải đi cả ngày, trèo non lội suối cực nhọc chứ đâu có thoải mái mà đi chơi được. Hai người cùng đi với tôi là đủ.
Lập lên tiếng:
- Vậy thì để tao với Quang đi. Thằng này mới ở Sài Gòn về, cho nó nếm mùi cực khổ một chút. Còn 2 thằng bay - Lập nheo mắt về phía Danh và Kim - ở nhà có công tác đưa 2 “ công nương” đi dạo mát. Nhớ bảo đảm an toàn không bị sứt mẻ gì hết đó nghen!
Ba người chuẩn bị đồ đi săn . lưong thực nước uống cho bữa trưa rồi lên đường sau khi hứa hẹn một chầu nhậu quên đường về vào buổi tối. Nắng lên cao, Danh và Kim đưa hai cô bé đi dạo chơi thơ thẩn trong rừng. Biển trong xanh, gió thổi vào mát dịu. Bốn người kéo nhau lên mảng đồi phía sau doanh trại. Bước chân đạp lên lớp lá khô nghe lạo xạo. Kim đưa mọi người đến rừng trâm. Anh kể :
- Mùa này trâm đang chin rộ. Mình đi hái ăn chơi. Trâm ở đây có cả nguyên một đồi và có nhiều loại khác nhau. Có loại to và ngọt , rất khó tìm trong đất liền. Hết đồi trâm lại đến đồi nhãn ở trên cao , nhưng là nhãn rừng nên trái nhỏ . Nhãn chin tới vào những ngày hè oi ả, độ khoảng tháng Tư. Bây giờ chỉ có trâm. Hôm nào Lan Đào trở lại đất liền , ra hái một mớ về làm quà , quí lắm đó.
Trong khi Kim đưa Đào đi lùng sục những cây trâm ngon nhất, Lan lại muốn đi thăm giòng suối huyền thoại. Danh đưa nàng đi về phía thung lũng. Giòng suối mùa khô chỉ còn là một lạch nước nhỏ chảy róc rách qua các khe đá. Dù sao, cảnh vật cũng nên thơ. Những hàng cây lá rủ hai bên bờ. Lan đến ngồi trên một tảng đá lớn, tháo giày . buông gót chân trần ngâm vào làn nước mát lạnh. Nàng nhắm mắt lại , rồi mở ra nhìn Danh cười bảo:
- Em không tưởng tượng nổi đây là nơi tắm của các nàng tiên . Anh Danh có tin huyền thoại này không?
Danh đùa:
- Anh có bao giờ ra dòm lén đâu mà biết?
Lan nắm tay đấm nhẹ vào ngực anh:
- Cái anh này, em hỏi thiệt chứ bộ!
- Có chứ! Không những anh tin mà chuyện đó có thật không phải huyền thoại. Ngay hôm nay anh cũng thấy nữa mà.
Lan mở to đôi mắt:
- Thiệt vậy sao? Đâu anh chỉ em coi. – Danh cười :
- À! Hôm nay vì có anh nên chỉ có một nàng tiên đến . Mà nàng ấy không tắm , chỉ ngồi trên bờ đá ngâm chân thôi.
Lan dí ngón tay lên trán Danh:
- Lẻo mép quá! Con trai bắc kỳ có khác. Chắc là nhiều cô chết vì anh lắm phải không?
- Coi vậy mà không phải vậy. Vẫn cứ phải ca bài “Sầu lẻ bóng” dài dài đó Lan ơi! Em ngồi đây, để anh đi tìm ít trái trâm cho Lan. Lên đồi trâm mà không thưởng thức thì uổng lắm .
Nói rồi Danh đi lanh quanh một lúc mang đến cho Lan một nón trâm tím ngắt. Anh đọc thơ:
- Chiều hành quân đi qua những đồi sim tím,
Màu tím hoa sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt.
Ngày trước, nhà thơ Hữu Loan có những đồi hoa sim để đưa ông về những kỷ niệm với người yêu. Ngày nay, anh cũng có cả một đồi trâm để có những kỷ niệm với Lan.
Lan bật cười:
- Tán giỏi lắm! Cho em thử tài anh nghen! Xuất khẩu vài câu như nhà thơ coi được không?
Danh ngước nhìn đôi môi của Lan có vết màu tím của những trái trâm nàng vừa ăn đọc khẽ:
Tím cả một lưng đồi
Tím đến tận bờ môi
Dáng ai bên bờ suối?
Nụ hôn có gọi mời?
Lan ngước mắt nhìn Danh, không nói, Anh đưa tay vuốt nhẹ mái tóc nàng rủ xuống hai bờ vai. Lan nhắm mắt, dáng đợi chờ. Anh cúi xuống đặt nụ hôn nhẹ lên đôi môi mọng tím. Dường như có một mùi hương thoáng vị chua ngọt của trâm. Lan ngả đầu nép sát ngực Danh. Anh ôm nàng trong tay. Thân thể nàng rung động, nóng bỏng trong vòng tay anh. Anh ép sát người nàng, nghe cảm giác bờ ngực mểm mại của nàng đang thổn thức rạo rực trong anh. Anh đưa tay nâng nhẹ gương mặt nàng lên để thấy hai bờ môi cuốn hút vào nhau, đắm đuối, mãnh liệt, cuồng loạn. Một hồi lâu, Lan rời ra, quay đi khuôn mặt bừng đỏ, nàng e thẹn lên tiếng:
- Anh tham quá, mới quen nhau đã hôn tới…hai lần, mà còn làm người ta nghẹt thở
Danh xiết nhẹ đôi bờ vai của Lan, cho nàng tựa đầu lên vai, thì thầm bên tai nàng:
- Lan ơi!Mùa xuân đang đi tới. Có phải mình đang mơ?

Phương Duy
24/09/2007