Chương 2
Những chuyện lạ đầu.
Những chuyện lạ đầu.
T |
hứ Sáu là ngày thu dọn giường chiếu. Ngay sau khi Edwin đã tắm rửa xong ở phòng tắm giặt, mẹ lên phòng chị em tôi , trên tay ôm theo đống khăn trải giường sạch sẽ.
- Thức dậy
mau nào, hai cô! Edwin đã rửa mặt xong rồi.
Nên nhớ
hôm nay còn
phải làm giường trước khi đến trường.
Trong một gia đình có hai đàn ông và ba người đàn bà, khuôn thước mẫu mực
là căn bản cho những quy định nghiêm nhặt
mọi người phải theo. Sáng sớm, bố thức dậy trước tiên lúc bốn
giờ rưỡi. Vào mùa đông, và trong những ngày mẹ nướng bánh, ông đốt lò lên và nấu
nước sôi. Rồi ông rời nhà đi làm công việc
vắt sữa sớm. Mẹ thức dậy kế và một mình xử
dụng nhà tắm với nửa bình nước nóng, rồi
bà lên đánh thức Edwin, đến phiên anh đi xuống rửa mặt. Khi Edwin dùng xong và
đi cho heo ăn mới tới phiên chị em tôi. Phòng tắm lúc này đuợc khoá trái cửa, mành cửa sổ cũng kéo xuống, hai chị
em mỗi người nửa bình nước nóng. Bố và
Edwin là đàn ông phải xài nước lạnh. Đó
là một trong những ưu điểm mẹ gặt hái được
trong mười một năm mẹ làm việc tại viện Nhà Trắng. Ở nơi này, bà đã thu lượm được
một mớ phương pháp và triết lý , trong số
này là một niềm tin cho rằng đàn bà thì mong manh yếu đuối hơn đàn ông nên cần được chiều chuộng hơn một chút. Quy định
chỉ được vi phạm vào mùa đông khi
nước lạnh đóng thành băng đá. Bố và Edwin
mỗi người được hưởng vài tia nước
nóng vào trong chậu rửa mặt.
Sau khi tắm rửa
xong, chúng tôi trở lên lầu trên để làm giường. Những ngày thứ Sáu là ngày thay
giường nệm, chị em tôi phải làm cho cả
phòng chúng tôi và phòng của Edwin .
Lillian và tôi lúc nào cũng cãi nhau khi làm việc này. Chị muốn những tấm khăn dơ
cũng phải xếp thành một đống gọn gàng . Tôi lại muốn tung chúng ra khắp phòng
cho giống cảnh hậu cung thời cổ đại,(Tôi
có một cuốn Thánh Kinh màu đỏ có nhiều hình ảnh, trong đó có một bức vẽ cảnh triều đình của vua Salomon
với những tấm màn treo khắp nơi, chỉ khác là chúng làm bằng sa tanh và màu mè sặc
sỡ). Lillian thích trải phần tấm
chăn đắp bao phủ bên trên bẻ gấp
xuống thật thấp để khi chị lên giường nằm vẫn khoe ra được đôi vai xinh đẹp. Tôi lại muốn đưa nó cao đến tận gối
để có thể rúc vào đó như chui vào một
cái hang động cổ. Sáng nay, chị đặc biệt tỏ ra hống hách, còn tôi lại trở nên’ bất kham’. Chuyện về gia đình Barshinskeys chắc phải dính
dáng tới việc này.
Với một tiếng hét mà tôi hy vọng người
nghe sẽ kinh hãi rùng rợn, tôi tung tấm
khăn trải giường lên cao cho nó chụp phủ lên đầu Lillian làm chị phải vùng vẫy để thoát ra. Lúc này trông chị thật tức cười khi những tấm khăn bùng lên xẹp xuống
trong cơn giận dữ của chị:
- Đây
là bóng ma
Lillian Willoughby
Đã về âm phủ
Dưới áo cô dâu
Vào tuổi mười bốn
Chị vùng thoát ra được mặt đỏ lên vì tức giận, tóc tai đã hơi rối ren.
- Đồ nhóc con hư đốn đáng ghét! Tao không
thèm làm giường với mày nữa. Tao làm một mình.
Chị đẩy tôi ra khỏi phòng , đóng cửa lại.
Tôi nghe tiếng chị kéo ghế chặn cửa không cho tôi vào. Nó có nghĩa là Lillian
có thể trải giường nệm theo ý thích của
chị, để mình tôi làm cho phòng ngủ của Edwin. Tôi bắt đầu vừa làm vừa ngó ra cửa sổ.
Việc đêm qua hoàn toàn là sự thực chứ
không phải nằm mơ. Trên mặt đất quả vẫn còn một đống đen ngòm với vài cục than
hồng. Đúng y như anh em tôi đã chứng kiến,
nhưng chỉ vì lý do nào đó, cả tôi và Edwin đã không muốn nghĩ tới nó.
Rốt cuộc, Lillian cũng ra khỏi phòng. Chị
có lẽ đã chau chuốt chải lại mái tóc, vì đó là điều chắc chắn chị phải
làm. Từ dưới cầu thang vọng lên, mùi thơm của cháo trong bếp và lời nhắc nhở:
- Sophie, con chỉ còn có vài giây nữa thôi!
- Để con đi cho Tibby ít sữa đã, được không?
Đổ sữa vào chén xong, tôi ra mở cửa chuồng
cho chú mèo Tibby nhảy ra, và bỗng dừng lại: Ivan Barshinskey đang đứng đợi bên
ngoài.
- Xin
chào!
- Chào!
Hắn chà ngón chân lên mặt đất với khuôn mặt
buồn thiu.
- Nhỏ ô kê chứ?
- Ừ!
Tibby, được giải thoát từ cái chuồng hôi
hám, phóng ra ngoài và chạy ba vòng quanh sân, nhảy lên nóc cũi chó rồi qua
hàng rào rồi mới trở về với bữa sữa sáng.
- Sao nhỏ nhốt
nó chi vậy? Nó đâu có thích.
- Phải nhốt để chồn cáo đêm về không đến bắt
nó.
Tibby nhìn lên. mặt và râu nó dính đầy sữa
và nó hắt xì làm Ivan cười.
Tôi chưa từng thấy một nụ cười có thể đổi
khác một con người như vậy. Hắn hoàn toàn đổi khác, Từ một thằng bé với gương mặt vàng úa, tư lự lúc
nào cũng u buồn thành một người trẻ hoạt
bát và hơi xấu hổ. Đôi mắt nâu của hắn dường như tươi vui và ấm áp và người ta
có thể nhìn đó và cho rằng hắn nghĩ mọi thứ trên đời đều rất vui thú.
Tôi không thể nào tin đó là cùng một con người. Anh chàng Ivan lúc này
là một người tuyệt diệu. Nhìn hắn, bạn sẽ
quên đi cái mũi tẹt, đôi chân đất dơ bẩn và cả cái quần mặc hở cả mông của hắn.
- Sophie! - Mẹ gọi. - Mẹ nói chỉ có vài giây
thôi mà…
Nụ cười của hắn biến nhanh:
- Tao đến nhờ nhỏ dẫn Daisy May đến trường
được không? Mẹ tao ốm.
- Sophie! Muốn mẹ phải lập lại lần nữa hay
sao…?
Mẹ từ trong phòng tắm rửa bước ra, và khi
nhìn thấy Ivan, bà ngưng lại.
- Ivan nhờ con và chị Lillian đưa Daisy May
đến trường mẹ à!
- Lillian và con? - Mẹ tự động nhắc lại. Bà nhìn
vào bộ đồ rách tả tơi trên người Ivan. Hắn
trông giống như một trong những bức tranh vẽ trong cuốn sách được thưởng ngày
Chủ Nhật mà tôi trúng giải, những bức tranh minh hoạ chuyện những đứa bé trong các khu ổ chuột đang chết dần vì thiếu ăn trên các căn
phòng dưới mái nhà. Nó cúi gầm mặt xuống đất và lẩm bẩm một lời gì đó
kết thúc với câu: ‘…thưa bà Willoughby’. Mẹ chen vào:
- Xin lỗi! Cậu nói gì tôi không nghe rõ?
Anh chàng hơi ngẩng đầu lên:
- Dạ mẹ cháu đang đau.
- Thôi được rồi, - Bà lạnh lùng nói. - Sophie sẽ đưa em gái cậu đến trường. Còn tôi sẽ
ghé qua nhà xem bà ấy thế nào.
- Xin cám ơn, thưa bà.
Trông Ivan lại càng lợt lạt, bối rối thảm hại hơn nữa. Ô, lạy
Chúa, hắn còn chảy thò lò mũi xanh. Mẹ
chắc không thể nào tha thứ chuyện thiếu
vệ sinh này. Phải chi hắn nở nụ cười. để
mẹ ít ra có thoáng nhìn thấy cái khía cạnh thân thiện của hắn, sẽ tốt hơn biết
bao. Bởi tôi biết rằng cho dù nghèo khổ
dơ dáy đến đâu cũng không thành vấn đề nếu họ có thể đánh động lòng trắc ẩn của
mẹ, để bà thấy cần cư xử ra sao: ‘Ôi những
kẻ đáng tội nghiệp.
chúng ta phải làm gì đó cho họ’. Tôi biết là
nụ cười của Ivan sẽ được việc vì
nó cho thấy con người hắn cũng dễ thương biết bao. Thế nhưng hắn đã không cười.
Trái lại hắn hít vào cái rột.
- Chờ đó! –Mẹ nói với sự tởm lợm. - Bà biến vào trong phòng tắm và trở ra với một
mảnh áo gối cũ đưa cho Ivan. Hắn cầm lấy không nói một lời, hỉ mũi vào đó rồi
quay người chui qua lỗ rào biến mất.
- Con không được tới gần tụi nó quá. - Mẹ bảo.
– Chúng có lẽ chấy rận đầy người.
Mẹ có tàn nhẫn quá không? Bây giờ tôi nhìn
lại và phê bình bà dưới lăng kính khác,
cái nhìn hiểu biết về sự khó khăn ra sao
để đạt được và gìn giữ những tiêu
chuẩn vệ sinh và sự kính phục cũng như một
vị trí gần như cao nhất của tầng lớp đặc
biệt trong xã hội của chúng tôi.
Trong làng, gia đình chúng tôi được kể như thành phần giàu có, trí thức, đáng kính trong
tầng lớp công nhân và lao động. Cao hơn, đó
là các chủ trang trại và thành phần
thuê đất làm đồn điền, còn trên họ là giới quý tộc. Nhưng gia đình tôi thuộc tầng
lớp cao nhất của giới lao động. Bố là một quản lý trang trại đầy kinh nghiệm.
Mẹ từng là một quản gia. Chúng tôi có cuộc sống khá sung túc, phần vì gia đình
chỉ có ba đứa con, phần vì bố mẹ làm việc không ngưng nghỉ. Chúng tôi có dư thừa
thực phẩm và có thể chia sẻ cho người khác. Nhà cửa sạch bóng như gương. Kho lẫm
chứa thực phẩm dự trữ, dưa muối thịt sữa nhiều hơn bất cứ nhà nào. Khăn trải
giường do chính tay bà ngoại Cobham nối lại và viền ren, bao ghế và khăn trải
bàn được đan móc bằng tay. Hai chị em tôi được đi học đánh dương cầm và được
thay đổi đồng phục và áo khoác hai lần
trong tuần chứ không phải một.
Mái tóc cài nơ chứ không cột dây và giày được (bố và Edwin) đánh bóng mỗi
ngày. Chúng tôi được nể trọng. Và bây giờ nghĩ lại, tôi hiểu mẹ đã phải chiến đấu và làm việc hăng say mới có đưọc sự nể trọng
đó. Không dễ gì bà để cho nó bị hủy hoại vì có một gia đình ăn mày đến sống ngay sát nách.
Mẹ không nói suốt bữa ăn sáng , cứ chỉ múc
cháo và rót trà vào tách với cái lưng
thon thả của bà hôm nay dường như thẳng hơn. Chỉ khi bố bước vào, sự im lặng mới
vỡ tan:
- Thế nào! Ông ấy làm việc ra sao? Cái người
thợ nuôi bò sữa mới đến….
- Ông ta rất đưọc
việc.
Tôi chờ đợi, thật khổ sở. Ông Barshinskey phải
là người thợ giỏi, điều này thật quan trọng. Nếu không, nhà họ sẽ chẳng có gì.
- Thế bố có để cho ông ta vắt sữa con Lady Audley rồi chứ?
Lady Audley là con bò cái trong đàn đã từng
đoạt giải. Sữa của nó lúc nào cũng tốt, và khi nó mới sinh con, sữa nó đứng đầu
trong đàn. Nhưng nó là con bò khó tính, dễ nổi giận và cho ra sữa rất chậm khi nó không vừa ý. Bố có thể kiềm chế nó đưọc, mặc dù ngay cả với
ông, đôi khi nó cũng đạp cả vào thùng sữa vừa mới vắt đầy. Còn ông Hayward và cậu
trai vắt sữa đều từng bị nó húc đuổi quanh chuồng khi nó tức giận. Bố cười:
- Chưa, con gái ạ! Từ từ rồi bố sẽ để ông ấy
làm. Nhưng những con khác có vẻ thích
ông ấy. Con Poppy, Charity. Ông ta cư xử
với chúng nhẹ nhàng dễ thương. Ông sẽ làm được việc thôi. Chỉ có điều hơi có vẻ
kỳ lạ.
Tim tôi
rộn rã. Bố tôi là nhà chăn nuôi gia súc tài ba trên đời, lại công bình nhất. Không ai có thể phiền trách ông nếu như
ông đã bực tức với ông Barshinskey, con người đã lạ lùng lại độc đáo, nhất là
trong lần xuất hiện đầu tiên. Nhưng bố
tôi, với hành vi chậm rãi đắn đo của ông, đã không hể có chút nào có ác cảm hay
làm ông ta tổn hại. Tôi thấy tràn ngập một cảm giác nhẹ nhõm thật ấm
lan truyền tới cả sang những con Poppy, Charity và cả bày bò sữa nhà Hayward .
Mẹ không thể xếp họ vào loại vô công rỗi nghệ khi ông ta là người thợ nuôi bò sữa
giỏi.
Lillian bao giờ cũng rời nhà đến trường
trước tôi và Edwin. Chị bảo là cần đến sớm để tập dợt bài nhạc chị chơi khi học sinh đi đều bước
vào đúng vị trí trước khi nhà trường tập trung cầu nguyện. Tuy nhiên , tôi biết
chỉ vì chị thấy xấu hổ nếu phải đi chung với hai đứa tôi. Không phải lúc nào
tôi cũng cư xử đúng đắn. Đi đến trường, mọi thứ của chị phải trong trọng lịch thiệp, áo khoác ngoài
phải trắng tinh và ủi hồ thẳng tắp. Edwin thì vẫn còn phảng phất mùi heo, đi
qua lại trước cửa trong khi chờ mẹ đang
cột lại sợi dây trên áo khoác của tôi và nhét vào túi một cái khăn tay sạch.
- Nghe
đây! - Mẹ trầm tĩnh nói. - Con đưa con bé đó tới trường giao nó cho
cô Thurston. Vào trong lớp không được ngồi cạnh nó và không chơi chung với
nó vào giờ chơi. Hãy tỏ ra lịch sự. Lễ độ không mất tiền mua. Nếu nó hỏi con làm gì hay để đồ ở đâu thì chỉ
bảo nó. Thế nhưng không cần phải quá sốt
sắng .
Tội nghiệp mẹ. Đây là một trong đôi ba lần
mà nghĩa vụ tôn giáo trực tiếp xung đột
với nhiệm vụ bảo trì sự được kính trọng trong xã hội của bà.
Daisy May đang đứng chờ trước cổng nhà cô,
và khi nhìn thấy cô bé, lòng tôi như chùng xuống. Rõ ràng đã có một cố gắng chuẩn bị hết sức mình
cho Daisy đến trường để cô bé
trông giống như học sinh chúng tôi. Phải chi họ đừng làm thế thì đã tốt
hơn. Đó không phải là chuyện đi chân đất hay chuyện mái tóc cột bằng sợi thung.
Tôi đã chờ đợi như thế. Tôi cũng nghĩ cô
vẫn sẽ bận bộ quần áo ngày hôm trước. Nhưng cái áo khoác ngoài, tiên sư nó, mới gọi là ‘bộ dạng kẻ ăn
mày, cẩu thả bê bối’. Nó đâu phải là cái
áo khoác. Đó là một chiếc áo sơ mi đàn ông đã cũ màu trắng sọc xanh đã được cắt
bỏ đi tay áo và cái tà áo thì cong rủ xuống
quanh cái củng (váy) của cô bé. Ngay dưới
bên trong cổ áo lại có một mảnh vá có thể thấy từ phía trước. Một mảnh vải dài, đoán chừng cắt từ một tay áo đã sờn, được sửa chữa lại cẩn thận làm cái giải
thắt lưng. Trông thật khủng khiếp.
Daisy May
đăm đăm nhìn tôi, thoáng liếc qua
Edwin, rồi lại dán chặt vào tôi.
- Tớ đã sẵn sàng đến trường. - Cô bé rạng rỡ nói , phần tôi nuốt nước miếng và cố nở một nụ cười yếu ớt.
- Đây là anh Edwin.
Tôi không nghĩ là Edwin
có hề quan tâm đến sự lo sợ về việc sỉ nhục
khi bị đám đông bỏ rơi. Anh đã mười ba tuổi, sắp
thành người lớn và đang học lớp cao nhất trong trường. Có lẽ anh cũng chẳng để
ý, hoặc nếu có chú ý cũng không hiểu tâm
trạng được hoà nhập vào cùng trang lứa của
một cô bé phải đến trường với một cái áo
đàn ông cũ mặc thay cho áo khoác.
- Chào ! – Anh nói mà mắt như không để ý tới cô bé..
Daisy May
chậm rãi nhìn Edwin từ cái đầu tóc gọn ghẽ tới bàn chân, giày vớ bóng lộn,
đoạn quay qua nhìn chiếc áo trắng xếp ly ủi hồ cứng ngắc cuả tôi, gương mặt
thoáng chút đau xót. Rồi cô bé mỉm cười:
- Ở trên mạn Marden, nơi gia đình mình mới rời khỏi, không còn ai bận
áo choàng trắng nữa. Tất cả đã ăn mặc mốt
mới, với nút áo cài ở phía trước như vầy.
Tôi không thể trả lời, Edwin lại càng
chán hơn. Anh bắt đầu bỏ đi trước làm tôi thêm bất mãn. Trong cái tâm trạng đau
khổ bối rối ấy, vả lại tình bạn hai đứa chưa
được kết chặt, không thể chịu đựng nổi
tình trạng ấy, cả hai rời rạc bước theo anh.
- Có hôm có một đứa con gái mặc áo trắng đến trường và thật đáng sợ. Nhỏ đó
khóc quá trời khi thấy mọi người mặc áo sọc , có tà áo cong như tớ đang mặc đây. Nó thấy xấu hổ vì…quê một cục. Dĩ nhiên bọn tớ
nói không sao, nhưng hoá ra có đấy. Không ai còn ăn mặc lỗi thời
như thế nữa.
- Hay quá nhỉ! – Tôi nói mà không nhìn cô.
- Trên khu Marden, đó là mốt mới nhất .
Tôi lại đang nghĩ về việc đi vào sân trường
với Daisy May. Các cô gái lớp nhỏ hơn chắc
không để ý, nhưng con nhỏ Breda Jefford
và bè lũ của nó thì khác. Chúng sẽ thấy ngay. Một khi chúng đã thấy thì không yên cho Daisy May. Nếu tôi đi cùng với Daisy, chắc
chắn bọn chúng cũng không để tôi yên.
- Tớ cứ hỏi mẹ tớ hoài rằng mẹ có thể cố kiếm
cho con một cái áo khoác sọc xanh hay không? Mãi rồi bà cũng kiếm được. Không phải dễ kiếm ra đâu
nhé. Chỉ trên phía Marden thì có bán. Đôi khi người ở tận Ashford cũng phải đến
đó mua.
Brenda Jefford có ba đứa khác trong bọn, nhưng ba đứa này yếu xìu. Khi không có mặt Brenda, chúng tản ra thành những
cá nhân cô độc . Chúng trở nên vô hại.
- Bồ có thấy nút áo này không? Đặc biệt lắm
đó! Trừ ở Marden ra, không thể nào tìm
ra được nút áo loại này trên áo khoác nữ đâu.
Phải rồi! Làm sao thấy được loại nút
này trên áo khoác nữ chứ? Chúng dùng làm
áo sơ mi đàn ông mà. Ngay khi Daisy vừa bước vào sân trường, con nhỏ Brenda sẽ
nhận ra ngay. Nó sẽ thấy ngay mảnh vá trên cổ áo để che đi chỗ sờn khi nó còn
cái áo sơ mi đàn ông, và dĩ nhiên nó sẽ thấy ngay những nút áo ‘đặc biệt chỉ có
ở Marden’.
- Tớ không nghĩ có ai ở trường này đã có mốt mới này phải
không?
Edwin đã bỏ rơi chúng tôi và đã đi khuất.
Chúng tôi vội vã băng qua sân nhà thờ, sân trường chỉ còn cách một quãng ngắn.
Mặt Daisy chợt đỏ ửng lên và cố tình tạo
một nụ cười tự hào ghê gớm. Trong giây lát, tôi có ý tưởng bỏ rơi cô , nhưng ý
nghĩ lướt qua rất nhanh. Điều tôi làm cũng tệ hại không kém.
- Coi nè, Daisy May, tớ nghĩ bồ nên cởi cái
áo sơ… ơ…áo khoác ra đi, mặc bộ đồ phía
trong thôi đến trường cũng được.
Nụ cười biến mất. Khuôn mặt cô bé càng đỏ
hơn :
- Sao được? Ai cũng mặc áo choàng, phải không?
Tớ đánh cược với bồ là trong lớp bồ không có ai không mặc nó cả.
Con nhỏ tuyệt đối đúng. Đứa nghèo nhất
trong làng cũng mặc. Chúng là biểu tượng của sự lệ thuộc vào sự được kính trọng,
và do đó đã được chuyển xuống làng từ
thùng đồ cứu tế và từ Bà Fawcett ở viện Nhà Trắng, người đã đứng ra thành lập quỹ trao tặng áo khoác và
giày vớ cho trẻ em nghèo.
- Tớ không thể đến trường trong ngày đầu tiên
mà không mặc áo khoác. - Cô bé la lên . Mọi sự giả vờ và niềm tự hào bỗng tan
biến.
Giọng cô bắt đầu run rẩy như sắp khóc.
- Không có giày , không sao. Tớ thật lo lắng.
Là mùa hè thì chắc có ai đó cũng không mặc áo.
Có điều áo trong của tớ còn một mảnh
vá dưới cánh tay khác màu với áo, vì vậy
sao có thể không mặc áo khoác ngoài đi
vào học. Nếu gia đình tớ phải sống đây lâu,
bọn chúng sẽ nhớ mãi cái ngày đầu tiên của tớ. Chỗ nào cũng y như thế
. Nó đã xảy ra ở Marden, ở Tonbridge, ở…
Cô bé lôi ra một đống tên , nhiều chỗ tôi
chưa hề nghe nói đến. Cô không khóc như tôi tưởng. Bằng cách nào đó một chút tự
trọng còn lại trong cô.
- Đìều tôi nói vừa rồi về cái áo khoác trắng
sọc xanh ở Marden không đúng vậy đâu. –
Cô bé nấc lên. - Bồ thấy rồi đó. Nó là cái áo sơ mi đàn ông. Mẹ tớ và tớ đêm qua hì hục sửa lại hy vọng tớ ăn mặc giống
mọi người khác,
Khuôn mặt tròn khốn khổ của cô lúc này chứa
đầy sự hoảng hốt làm cho hình ảnh của Brenda Jefford trở về trong trí óc tôi; cái dáng mập ú, dữ dằn của con nhỏ này tiến lại gần với
tay chân và giọng nói sẵn sàng tuôn ra
những lời nhục mạ về những nhược điểm của một cái áo đàn ông
cũ được dùng làm áo khoác cho nữ sinh,
Giờ chỉ còn mỗi một việc tôi có thể làm:
- Nào! -
Tôi dừng lại dưới gốc cây thủ tùng ở cuối sân nhà thờ. - Cởi áo khoác bồ ra và giấu nó ở đây. Mình
cũng sẽ cởi áo mình ra luôn. Để lại nó ở
đây khá an toàn. Tan học về nhà mình sẽ lấy lại. Cả hai đứa cùng không mặc áo, như vậy chuyện
sẽ khác phải không?
Trông nét mặt cô bé
ánh lên sự giải thoát. Tôi phải quay mặt đi vì bối rối. Chiếc áo đáng
ghét được cởi ra cột lại một đống bên cạnh chiếc áo ủi hồ xếp ly phẳng phiu của
tôi. Tôi nhìn xuống chúng và thấy có gì đó đáng chú ý đang bắt đầu xảy đến với
tôi. À nó đây. Đó là những nếp gấp màu
tuyết trắng, biểu hiệu cho sự cao quý của gia đình Willoughby đã bị nhăn
nhúm nhàu nát trong bọng cây. Và bỗng
nhiên tôi trở nên bất cần đời:, Trong tôi tự dưng có một sự bùng nổ to lớn và sán lạn vượt ra khỏi
những ràng buộc của kỷ luật, một
sự tự do lâng lâng, một cảm giác phấn khởi man dại, chắc bắt nguồn từ cái mùa hè non dại nóng bỏng,
hơn thế nữa có lẽ từ phần âm nhạc tôi đã được thưởng thức vào đêm hôm trước. Con nhỏ này, Sophie Willoughby,
mười một tuổi đời, bỗng tự định đoạt cho đời mình. Tôi có thể làm bất cứ gì.
Tôi sẽ làm những gì mình muốn. Thế giới đang chờ tôi đến chiếm ngự. Không một
ai có thể chạm đến tôi hay làm giảm đi sức mạnh ấy. Tôi sẽ bay bổng không lầm
lỗi trên đầu những kẻ lùn xủn quanh tôi.
Tiếng chuông lớp reo vang lên trong sân
trường. Tôi có thể đi học hay có thể dễ dàng
quyết định không đi nữa. Tuy nhiên, tại
sao không tiến tới và bắt đầu cuộc cách mạng ngay tại đây?
Tôi nhìn lại cái áo khoác lần nữa. Những
ràng buộc của thời thơ ấu đã lắng chìm
mãi mãi. A! thế vẫn chưa đủ:
- Tớ cũng sẽ cởi luôn cả giày và vớ nữa. –
Tôi bảo Daisy May. - Vậy là hai đứa mình trông giống hệt nhau rồi..
Giày vớ
được bỏ lại, nhét vào bọng cây, hai đứa tôi vội vã bước qua hành lang nối nhà thờ vào sân trường
học. Trật tự viên đã rung đến hồi chuông cuối. Các lớp học đã xếp hàng hai . Daisy và tôi nối vào đuôi
hàng lớp Năm. Tôi thấy những cái nhìn sửng
sốt của đám bạn cùng lớp, nhưng thây kệ, tôi ngon hơn chúng mà.
Cửa sảnh đường mở , vọng ra âm thanh của Lillian đang gõ vang đoạn khúc
nhạc dạo đầu của ‘ The Haymaker’. Chị luôn luôn
chơi bài này vào ngày thứ Sáu. Từng lớp học tuần tự tiến vào vị trí của
mình trong sảnh đường, nhỏ trước lớn sau.
Khi lớp Bốn đã đi vào hết sảnh đường trước hai bước. lớp tôi theo
sau. Khúc nhạc ‘The Haymaker” thình
lình chuyển qua hồi kèn vang khúc chiến thắng tự do. Và khi
đi ngang cây đàn, tôi gửi cho Lillian một nụ cười cao ngạo và vui thích . ‘The
Haymaker’ bỗng bị gián đoạn. Một mớ âm thanh nghe thật chói tai và rối loạn. Tiếng
đàn ngưng một lúc và tôi ngoái cổ lại nhìn Lillian. Mắt chị căng ra , trợn lên,
miệng chị mở to. Tôi làm một cử chỉ vẫy chào khe khẽ để chị không lầm , và rồi khuôn mặt chị biểu hiện
ra điều mà tôi biết quá rõ: môi mím chặt, má sưng sỉa, mắt toé ra những
tia lửa xanh rờn cơn giận dữ nhắm vào
tôi. Nó làm tiếng đàn chị lạc điệu. Chị
tìm lại được giòng nhạc, bản ‘The Haymaker’ tiếp tục , nhưng âm hưởng biến thành một khúc quân hành phẫn nộ
điếc tai.
Nhìn xuống đôi chân trần, niềm phấn khích
trong tôi nguội dần. Cô Thurston đứng bên lề sảnh đường nhìn tôi đăm đăm với một
khuôn mặt băn khoăn lúng túng. Không lẽ
cô phải đưa cho con gái nhà Willoughby danh giá một đôi ủng từ thùng đồ từ thiện?
Bọn Brenda thì đang cười khúc khích. Đám còn lại trong lớp cũng mỉm cười hay bối
rối quay mặt đi. Ô hô! Ước chi tôi đã không tháo bỏ giày! Bàn chân giờ đã lấm đầy bụi cát và mảnh sân trường xi măng thô nhám hơn tôi tưởng. Khúc nhạc đã
ngưng và bài kinh cầu đã bắt đầu. Tôi có
cảm giác đôi mắt của Lillian dán chặt phía sau lưng tôi. Tại sao tôi làm thế nhỉ?
Daisy May đứng bên cạnh, sợ hãi nhưng cố
che giấu. Cô bé có cảm giác tôi đang nhìn nên cô quay qua tôi nở
nụ cười biết ơn. Niềm phấn khích, sự bùng nổ tự do xâm chiếm tôi lúc trước có lẽ đã tan biến, nhưng sự chua xót và việc bảo vệ người bạn mới trong tôi vẫn tồn tại. Mẹ tôi, chị Lillian và cả ông anh Edwin (tuy anh ở một mức độ ít
hơn) đã quay mặt đi với gia đình Barshinskeys, nhưng bố và tôi là những hạt giống
khác. Bố con tôi thuộc chính nòi Willoughbys.
Bàn tay chúng tôi không đẹp, nhưng tấm lòng thì không bỏ rơi bạn bè.
Có hai điều tôi luôn ghi nhớ mãi về cái
buổi sáng đầu tiên Daisy May đến trường. Không nói đến buổi chiều vì tôi đã bị phạt
giam mình trong phòng ngủ và không được ăn cơm tối để sám hối tội lỗi. Một việc
là về cái tên rắc rối của cô bé và điều hai là việc xảy ra với con nhỏ Brenda.
Ngay sau buổi tập họp cầu kinh đã xong,
tôi đưa Daisy May đến văn phòng cô Thurston để giới thiệu. Lúc đầu, cô giáo già
chẳng để ý gì đến điều đó. Cô chăm
chú nhìn vào đôi chân trần của tôi và lắp
bắp :
- Sophie,
có phải… có gì…a…? - Và rồi cô
mím chặt môi. chớp mắt và kéo bảng điểm danh lại gần.
Trong khi cô gọi tên điểm danh, Daisy khiêm
tốn đứng chờ cô ở tại bàn. Điểm danh xong, cô mới bắt đầu ghi tên của Daisy May
vào cuối trang:
- Cô sẽ tạm đặt tên em ở cuối danh sách trong kỳ học này. Được rồi, Daisy May phải
không?
- Dạ, cô!
- Nói
Thưa cô Thurston, Daisy May!
- Dạ, thưa cô Thurston!
Cô viết xong chữ Daisy May ,đoạn ngưng lại: - Daisy May …gì?
- Dạ, Barshinskey,
thưa cô Thurston!
Cô Thurston di động làn môi trên lên hàm răng giả. Hàm
răng này của cô không vừa vặn lắm nên nó
hay bị rơi ra khi cô cười lớn.
- À
phải, Barshinskey. B-A-R-S-H-I…
- Dạ thưa cô, không phải thế đâu. Sau chữ S là chữ C ( nên nhớ
ông Bố của cô bé là người Nga)
Cô Thurston cất tiếng ho nhẹ , rồi gạch đi
viết lại S-C-I…
- Dạ, sau C là H… - Daisy lại lên tiếng. Cả
lớp bắt đầu xầm xì cười cợt. Mặt Cô Thurston
hơi đổi sắc. Cô bối rối nói:
- Cô nghĩ
tốt hơn em lên viết lên trên bảng
đi.
Daisy May
cầm phấn viết một loạt những chữ B-A-R rồi theo sau là C-H-S-Z. Cả lớp lại xôn xao xì xầm . Daisy
May có vẻ chịu thua. Còn cô Thurston
thoáng vẻ bực tức.
- Không cần ngu ngốc như thế, Daisy May. Xoá
ngay đi và về chỗ ngồi. Em tới ngồi cạnh Sophie đi, vì hai đứa dường như đã là
bạn thân thì phải.
Cô Thurston nói với một giọng hơi cọc cằn, mà theo cô giáo già, vậy đã gần
như là một sự trừng phạt. Bởi cô là một
cô giáo dịu dàng, tử tế, học thức không
cao lắm , sợ những điều vô lý, sợ cách trừng phạt chạm tới thân thể, sợ cả ông
Deacon, ông hiệu trưởng.
Daisy May ngồi cạnh tôi và cô Thurston viết
một tên rõ ràng vào sổ điểm danh. Rồi cô đưa cho Daisy một cuốn vở làm bài tập
trên đó viết : DAISY MAY BARSHINSKEY, theo cách tiếng Anh mà tôi đánh vần và mọi
người từ giờ sẽ viết như thế.
Trong giờ học Thánh Kinh, Daisy được cô
giáo cấp cho tấm cạc đầu của cô bé. Ai ai cũng được phát không tấm cạc đầu. Sau
đó phải học để lấy thành tích. Những tấm cạc này rất được học sinh khao khát, một phần vì cuối năm
học, ai có nhiều nhất sẽ được thưởng, phần khác vì trông chúng rất hấp dẫn:
đó là những tấm cạc cứng có in chữ và có bức tranh nhiều màu bóng lộn. Đôi
khi có người may mắn được có một ‘trời sao lấp lánh’, đó là một tấm cạc ngoài
chữ và hình ảnh còn có rắc thêm những bụi bạc lấp lánh như sao. Daisy May không quá may mắn thế. Cái cô bé có được là hàng chữ: ‘ Hãy
cho thì sẽ được’ với những chữ màu hồng và xanh, phía dưới là hình vẽ một
cô gái nhỏ rách rưới đang cho một con chó thật mập mạp mẩu bánh cuối cùng của
cô. Phía sau cô bé, từ một cánh cửa mở, một bàn tay đang vẫy gọi cô bé
đến một bàn ăn chất đầy nho , táo và cam. Daisy May rất sung sướng với tấm
cạc đầu.
Vào giờ chơi, chúng tôi đi ra sân. Ngay tức
khắc, Brenda Jefford, con nhỏ béo mập
hung thần này sẽ tấn công chúng tôi ở điểm
nào? Không mặc áo khoác chăng? Khó nói.
Chắc không đáng cho nó lên mặt sỉ nhục
chúng tôi vì điều ấy, bởi nó biết rất rõ
rằng: tôi, con bé Sophie Willoughby này, luôn luôn có những áo khoác tốt hơn, sạch sẽ hơn bất cứ ai nếu
tôi muốn.
- Đưa ‘tau’ tấm ‘ kẹp’của ‘mày’. – Brenda lên tiếng.
Ba đứa khác trong bọn bao vây hai đứa tôi
thành nửa vòng tròn. Trong nỗi tuyệt vọng, tôi nhìn quanh tìm Lillian, không hy
vọng chị sẽ tham gia vào trận chiến với bọn Brenda, nhưng đơn giản với sự có mặt khinh khỉnh và đầy miệt thị của chị sẽ làm bọn
côn đồ này chỉ chọc phá kiểu trẻ con
thay vì là một trò hiếp đáp thẳng tay. Nhưng không có Lillian lúc này.
Các nữ sinh lớn chuẩn bị rời trường được phép ở lại trong lớp học vào giờ chơi
để trao đổi với nhau chuyện người lớn hay đan móc thêu thùa.
- Nghe ‘ tau noái’ gì chưa? Đưa ‘tau’ tấm ‘kẹp’.
- Tại sao? – Daisy May trầm tĩnh hỏi. Nhỏ mập Brenda lúng túng trong giây lát. Chưa có đứa nào trong lớp dám hỏi
ngược thế. Lời của nó là sức mạnh ,là mệnh lệnh. Không ai dám đòi hỏi nó phải
giải thích vì sao. Nó lầu bầu:
- Sao hả! Vì ‘tau noái’ thế!
- Sao mày nói thế? – Daisy May tiếp.
- Bởi vì… -
Nó loạng choạng, và tôi cầu có được
may mắn thêm lần nữa, tôi mong con nhỏ sẽ nghĩ lại và bỏ đi, nhưng thật vô vọng.
- Bởi vì không ai có cái tên như ‘
mài’ được phép có ‘ kẹp’. Đưa nó đâ…y…y…y!
- Không đưa. – Daisy May vừa nói vừa ôm chặt tấm cạc
vào ngực. Bọn chúng tới sát gần hơn.
- Để
cho nó giữ lại đi làm ơn. - Tôi
nói với một giọng run rẩy yếu ớt. Dường như đó là hành động can đảm nhất trong
đời tôi. - Tôi sẽ đưa cho bồ tấm cạc của tôi khi tôi có
được nó.
Brenda nhìn tôi khinh bỉ:
- Rồi ‘mài’ cũng phải đưa nó cho ‘tau’.
- Nó vừa nói vừa xô tôi vào tường, rồi quay lại với Daisy
May:
- Giờ có đưa ‘tau’ không thì bảo?
- Không!
Thật khó diễn tả sự kinh hoàng mà bọn
Brenda gây ra cho toàn lớp Năm và cả những lớp nhỏ hơn. Chúng
chỉ có bốn đứa, thế tại sao đám còn lại chúng tôi không tập hợp để chống lại bọn chúng. Thật khó giải thích, nhưng tôi tin
rằng cái trò hiếp đáp và các băng đảng
có tổ chức chỉ đến một cách tự nhiên. Trừ
phi bản năng háo thắng là một yếu tố vượt trội trong cá tính của một ai đó, không dễ dàng gì để tập trung một lực lượng
và cùng chiến đấu. Người ôn hoà thường hay bị kẻ hiếu chiến bắt nạt, cho dù người
ấy là một thần tượng và gã hung hăng kia là một tên đần độn. Chỉ khi nào
người ôn hoà có những toan tính cao cả
hay nhân danh đạo đức, họ mới đứng lên chống lại trò hiếp đáp. Con người tôi chẳng
có được cái ánh sáng thần thánh bừng
cháy trong tim như thế. Vì vậy tôi đã từng bị bọn Brenda hung thần đuổi bắt đánh đập quá nhiều lần .
Hơn nữa, ở tầm cỡ thấp hơn, ngay cái ngoại hình của Brenda cũng đủ gây
kinh hoàng trong tim chúng tôi. Con nhỏ
mập như heo lại cao hơn chúng tôi cả cái đầu. Vào mùa đông, nó bận chiếc áo
khoác màu mù tạc (hạt cải bẹ xanh)
làm người ta nghĩ đến mỡ bò. Thật khó chịu khi nhìn một cục mỡ khổng lồ
di động cả tảng như vậy.
- Được, -
Brenda hăm doạ. – ‘Tau’ sẽ dùng tay lấy nó..
Chúng đẩy Daisy vào sát cạnh tôi, bắt đầu sổ
tung sợi dây thung cột tóc rồi lôi tóc
cô bé. Brenda dùng tay thoi vào ngực cô, cố cướp lấy tấm cạc trong tay cô bé.
- Tao sẽ méc cô giáo Thurston. - Đây là lần can đảm thứ hai trong đời tôi. Hy vọng điều đó giúp tôi khỏi rắc rối.
- Câm miệng lại. – Brenda vừa nói vừa đẩy
tôi thêm nữa. - Vậy được rồi, Bọn
‘tau” sẽ đè nó xuống lấy.
Bọn chúng
đưa tay ra chụp lấy Daisy May đè xuống đất, và trước sự kinh ngạc của
tôi, Daisy May nhét tấm cạc vào dưới cổ, giấu nó vào áo trong, rồi dùng tay chân đánh trả lại. Giống như một
cơn lốc nhỏ, tay thì đấm, chân cô đá vào
cằm của Brenda. Phải chi cô có mang
giày thì đã khá hơn. Điều đó càng làm bọn
côn đồ mất bình tĩnh và chỉ trong giây
lát, Daisy May đã nằm lăn dưới đất. Dù vậy cô bé vẫn không chịu đầu hàng. Trước khi chúng cướp được tấm cạc, cô xoay
người nằm xấp, dùng thân mình để bảo vệ nó.
- Đưa đây cho ‘tau’. – Brenda hét lên giận dữ với gương mặt phì lũ
đỏ hực màu dâu chín, và có tiếng ‘Không” ú ớ từ dưới mặt đất đáp lại.
Tôi đang chuẩn bị để làm điều can đảm thứ
ba trong đời (có thể là, đánh lại bọn
chúng), thì từ trong phòng vệ sinh nam, Edwin bước ra. Anh nhìn tôi một
lúc rồi quan sát một đống thân người đè
lên nhau dưới mặt đất.
- Ô, anh Edwin, tới cứu mau. – Tôi la lên
.- Daisy May đang bị đè dưới đó.
Edwin không phải là người háo thắng, nhưng
anh luôn luôn giận đến không thốt nên lời
khi chạm trán với bạo hành và trò ăn hiếp.
Đã có lần anh gặp rắc rối lớn khi
khám phá thấy đứa con trai nhà
Kelly chơi trò ‘treo cổ’ một con chó hoang. Với bản chất ù lì và kiên nhẫn, anh
nhảy sổ vào thằng nhỏ đập cho nó một trận nên thân đến nỗi nó bi gẫy hai cái răng và cần vài vết khâu
trong nướu. Bà mẹ Kelly đã đến gào thét với mẹ tôi, và giữa hai người
đã có một cuộc đôi co dữ dội. Bố phải bồi
thường viện phí chữa trị và cố ‘lên lớp’
cho Edwin rằng: cho dù hành hạ súc vật là việc làm tệ hại, chuyện trừng phạt thẳng nhỏ quá mức cũng là điều sai trái. Thế nhưng
Edwin, mặc cho mọi sự việc , nhất quyết không xin lỗi, và từ đó, bà Kelly luôn
rủa anh là ‘thằng nhỏ Willoughby sát
nhân’.
Lúc này, anh nhìn vào một đống người đang
chồng chất uốn éo loạn xạ, mặt anh thay đổi và cơn giận bung ra. Anh nắm lấy
cái đuôi tóc của Brenda kéo nó quăng ra
ngoài. Nhỏ mập ngã vào vành lan can của sân trường, như cái mền rách. Rồi anh nắm
lấy cổ áo hai đứa khác, cụng đầu chúng vào nhau, và trước khi có thể chộp lấy đứa
còn lại, con nhỏ nhanh chóng đứng dậy chạy mất, còn cố ngoái cổ sợ hãi nhìn xem
có bị đuổi theo không. Tôi bỗng lo ngại
không biết anh có lại đối xử giống như thằng
con nhà Kelly không, nhưng anh đã dừng lại, mặc dù còn rất giận dữ và còn đang
lắc mạnh hai đứa trong tay, nhưng tôi đã thấy anh không có vẻ nổi điên.
- Được! – Anh nói. - Đi vào văn phòng ông hiệu trưởng với tao!
Một lời van xin tha tội bật ra từ hai cặp môi run rẩy, và cả từ miệng của
Brenda đang dựa lưng vào lan can. Cán
cân quyền lực lúc này đã nghiêng. Edwin là học sinh cấp lớn và lại là một trật
tự viên có quyền báo cáo lên hiệu trưởng. Chưa bao giờ anh làm điều ấy, bởi vì
kết quả sẽ thảm thương và khó chịu cho người bị báo cáo. Brenda bắt đầu khóc
lóc:
- Đừng báo cáo chúng tôi, - Nó rên rỉ .- Đừng báo cáo chúng tôi. Xin đừ…ng!
Màu đỏ trên khuôn mặt Edwin từ từ tan đi,
anh buông hai đứa đồng bọn ra
- Cút đi. – Anh nạt .- Đồ con gái ngỗ nghịch.
Tôi có thể biết chắc anh không còn quan
tâm nữa, và bọn chúng chắc cũng đoán thế, nên chúng kéo nhau bỏ chạy trốn vào
trong phòng vệ sinh nữ.
- Có sao không, Daisy May? – Anh tôi tử tế hỏi, mắt nhìn xuống tình trạng xốc xếch
của Daisy May. Rõ ràng là tả tơi nhưng không sao hết. Vai cô bé còn run
rẩy cùng với một loạt tiếng sụt sùi trong miệng.
- Em giúp nó đi, Sophie.- Anh thì thào.- Để anh vào gặp cô Thurston
xem có bị thương tích chỗ nào
không?
- Không bị thương đâu….
Nói vọng lên từ dưới đất, Daisy May ngồi dậy,
khuôn mặt lem luốc, và trong tay còn giữ tấm cạc, cũng lấm lem, bị gấp lại ở giữa và một
góc bị rách.
- Nó từng đẹp biết bao…và mới nguyên nữa. –
Cô bé nức nở.- Tớ sẽ không bao giờ có được
nữa. Sẽ không bao giờ. Tớ học hành quá tệ. Sẽ không bao giờ có được nữa.
- Đừng lo, mình sẽ cho bồ vài cái của tớ…
- Đâu có giống vậy,
Dĩ nhiên cô nói đúng. Dù cái của tôi cho
có như mới, nó vẫn là thứ đã xài qua tay.
Cái xúc động và sự vui mừng đầu tiên được
sở hữu một tấm cạc mới toanh, bóng lộn và không
có điều kiện sẽ không bao giờ được
lập lại.
Edwin chăm chú nhìn cô. Khuôn mặt không thoải
mái của anh hiện lên nét thương cảm tuyệt vọng. Anh bỗng quay lưng bỏ đi.
-
Cám ơn anh rất nhiều. – Daisy nói
với giọng ứa lệ sau lưng anh. - Quả thực, cám ơn anh nhiều lắm.
Phía sau gáy anh bỗng đỏ bừng lên. Anh hờ
hững đưa tay lên vẫy mà không quay đầu lại. Tôi nghĩ chắc anh hài lòng.
Đương nhiên, Lillian về nhà trước tôi và
tôi đã bước vào nhà chứng kiến một sự im lặng ghê hồn. Nhưng sau cuộc khủng hoảng
chấn động trong giờ chơi , phải thú nhận
là tôi đã không lo lắng mấy. Sáng hôm đó tôi đã xem xét căn hầm nhà và đã sẵn sàng. Nhưng tôi biết là sẽ thêm phần
ô nhục khi mẹ lên tiếng la mắng.
-
Vào ăn trưa cho xong rồi đi lên
phòng ngủ. - Giọng nói bà lạnh băng. - Mẹ
sẽ để bố mày xử lý chuyện này tối nay.
Điều này làm tôi buồn nhất. Tôi ghét để bố
giận tôi. Điều đó làm bố không vui.
Bữa cơm trưa có bánh mì nướng hành và thịt
ba chỉ ăn với nước chấm mùi ngò .Tôi cố
ăn thật nhiều, bởi biết chắc đó là bữa chót trong ngày của tôi. Không ai nói một
câu với tôi, kể cả bố. Chỉ có một điều liên quan đến sự có mặt của tôi trong bữa
ăn khi tôi chìa cái dĩa lấy thức
ăn của tôi lần thứ hai, Lillian gần như bị nghẹn họng:
- Coi nó kìa! - Chị trì triết. -
cứ ăn , ăn và …ăn như không có gì xảy ra cả.
Chị như không hể đụng đũa, và trên hai gò
má lại nổi lên những đốm đỏ của sự nhục
nhã lúc đầu đã xuất hiện trong khúc
dạo ‘The Haymaker’ buổi sáng. Tôi toan đáp lại chị, nhưng rồi nghĩ tốt
hơn là im miệng và tiếp tục nhét bánh vào miệng nhai. Bụng đã no căng, nhưng tới bẩy giờ tối lại sẽ
đói ngay thôi mà.
- Thật đáng
tởm! - Chị nhổ nước bọt. - Ước gì
nó không phải là em con.
- Đủ rồi, Lillian! – Bố nói.
- Đi vào pha trà đi, con! .- Mẹ xen vào.
Điều này quả thực là một phiếu thuận của mẹ,
bởi trà thường chỉ được pha sau khi
chúng tôi đã trở lại trường học . Xem ra
dường như Lillian đã thành người lớn rồi nếu cô đưọc tham dự vào việc uống
trà sau bữa ăn. Ở thời điểm khác, có lẽ tôi đã ganh tỵ và thấy bị bỏ rơi, nhưng
trí óc tôi lúc này còn đầy hình ảnh dũng cảm của Daisy May và sự khuất phục của
bọn Brenda Jefford.
Có một khoảnh im lặng khá lâu khi chúng
tôi ăn món rau hầm và bánh kem tráng miệng. Rồi bố nhẹ nhàng hỏi:
- Mình đã qua thăm bà Barshinskey chưa, Maud?
Mẹ trả lời lạnh lùng :
- Rồi! Tôi đã đem qua một ít Aspirin. Sống
như vậy chẳng trách gì bà ấy đau ốm. Không giường chiếu không thực phẩm…
- Vậy là tốt lắm, mình à! Nếu ai có thể để ý đến một người đàn bà đau ốm, tôi biết mình sẽ làm điều đó thật tốt.
Bị ngăn lại không nói lên được một tràng tố
khổ gia đình Barshinskey, mẹ đỏ mặt lên,
môi mím chặt. Thật không quá dễ dàng sống chung với người có tâm địa
quá tốt như bố.
Tôi đã vào giường ngủ khi nghe tiếng chân của Edwin bước lên cầu
thang, và rồi nghe tiếng ồn ào anh đang lục lọi
đống sách vở nghiên cứu về hoả xa trong thùng sách của anh. Điều
duy nhất anh muốn làm khi lớn lên là trở
thành người lái xe lửa. Xem ra hơi kỳ cục, bởi dĩ nhiên cậu con trai trong làng
nào mà không ước mơ là một tài xế xe lửa,
nhưng Edwin luôn bám chặt lấy ước mơ ấy.
Anh đến nhà ga trong làng rất thường xuyên. Đôi khi được phép đi lau chùi đồ vật trong phòng đợi khách và quét dọn quầy bán vé. Anh có một
cuốn sổ ghi đầy đủ thời điểm các chuyến
xe lửa đi đến, và anh cùng với ông Watkins sẽ bàn cãi một hồi vì sao chuyến xe
6:10 từ Grinstead đến muộn mất hai phút.
Anh lội bộ dọc theo các tuyến đường sắt qua những cánh đồng, những khu rừng đến nơi xa nhất anh có thể đi bộ đến được, và
anh có thể cho bạn biết các dấu hiệu hỏa xa ở chỗ nào, ai đang làm việc ở đó.
Ông Watkins có lần cho anh một cuốn sách về luật lệ hoả xa cũ, và Edwin đã học
thuôc lòng. Tôi thì đoán rằng bố hy vọng
là anh sẽ trở thành một nhà chăn nuôi gia súc. Chắc chắn không khó khăn gì để tìm một công việc cho con trai của ông quản
lý George Willoughby trong một nông trại bò sữa. Nhưng sự chuyên cần và đam mê
cho ngành xe lửa của anh làm bố phải thú nhận rằng ông sẽ phải để anh đi vào ngành nghề ưa thích của anh,
cho dù có nghĩa là anh chắc phải sống xa nhà.
Dưới gầm giường của Edwin là một thùng chứa
sách, tất cả đều về ngành xe lửa, vì anh
đã tiêu hết tiền riêng của anh vào đó.
- Edwin! - Tôi gọi khẽ và anh bước tới cửa
phòng tôi, trên tay vẫn đang cầm một cuốn
sách. – Anh làm ơn đưa Daisy May đến trường, chỉ buổi chiều nay thôi. để cô ấy
không phải băng qua sân một mình. Nói với cô ấy vì sao em không đi được.
- Được rồi! – Anh do dự, rồi giơ cuốn sách
lên. Nó gần như mới tinh và có hình một đầu máy xe lửa ngoài bìa. - Tao biết tao có tới hai quyển lận. Một do chú Hubert cho làm quà Giáng Sinh và
tao thì đã mua cuốn kia. Nó cũng không
hay ho lắm. Không có những đầu máy đời mới
nhất. Vì vậy đem cho đi không ngại.
- Ô!
- Tao nghĩ nên đem tặng Daisy May. Không như
anh em mình. Gia đình họ dường như chẳng có gì, phải không?
Ô Edwin yêu quý! Thật là một điều tốt mà anh có thể làm ( chỉ dở một chút là nếu anh dám đem tặng một trong những quyển sách mà anh quý nhất)
Và tôi cũng mong Daisy May không quá thất vọng với món quà như thế.
Dường như Edwin cũng có mối nghi ngại tương tự.
- Em có nghĩ đây là điều nên làm ? – Anh hỏi. - Ý tao là, con nhỏ đáng thương quá phải không?
Đó
là anh lập lại cách biểu lộ của mẹ khi thấy ai đó tội nghiệp và đáng
giúp đỡ. Tôi cũng chỉ mong bà cũng nghĩ thế với gia đình Barshinskeys.
- Anh thật quảng đại. Edwin.! Có chắc chắn là anh có thể đem cho chứ?
Anh ngưng một lúc, có vẻ xét lại, nhìn kỹ
cuốn sách:
- Coi nào! Tao có thể tặng cho nó cuốn khác,
cũ hơn. Coi không đẹp bằng cuốn này, nhưng không thành vấn đề. Nó cũng không
hay lắm…
Rồi anh bỏ đi. Tôi trở lại giường, chuẩn bị chịu đựng sự bực
bội và nhàm chán bị treo giò trong một
buổi chiều hè tháng Năm lê thê và nóng bỏng và (sẽ có) thêm bài giảng luân lý của bố vào buổi tối. Nhưng dĩa
bánh thịt nguội hồi trưa đã tỏ ra một liều
thuốc ngủ thật hữu hiệu. Tôi đã trôi vào giấc mộng thích thú: trở thành người lớn và trở nên xinh đẹp như
chị Lillian. Đôi khi một cuộc ‘ngồi thiền bất đắc dĩ ‘ cũng có thể trở nên dễ chịu.
Tôi có một việc làm vào những ngày thứ Bảy,
đến dọn dẹp trang trại làm sữa của ông Hayward và phụ giúp rửa ráy nồi chảo.
Tôi được trả công sáu đồng xu mỗi buổi,
vào thời buổi này được coi quá hậu. Một nửa số đó được trả thẳng vào một trương mục tiết kiệm của
bố, một xu để cúng nhà thờ ngày Chúa Nhật, một xu tôi đem bỏ vào ‘heo tiết kiệm’
của riêng mình, xu cuối cùng đem ra tiệm bánh kẹo của cô Penfold tiêu thoả
thích. Tôi chẳng phiền hà gì vì phải làm công việc này, bởi nhờ nó, tôi tránh
không đụng chạm mẹ nhiều trong một ngày bà phải nấu nướng nhiều hơn. Thứ Bảy là ngày bà phải chuẩn bị ăn uống luôn cho ngày Chúa Nhật để ngày này
không phạm vào luật sabath, luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật.
Tôi cũng thích nông trại Hayward này . Ông
chủ trại tính khí hơi bất thường và nóng nảy, nhưng bà vợ ông là một bà chủ
nông trại hoàn hảo: điềm đạm, nhạy cảm,
siêng năng và quảng đại. Họ có một cậu con trai tên Peter , mười sáu tuổi, làm
việc trong trang trại của nhà, lúc nào cũng cho tôi một cái gì đó khi tôi xong
việc, lúc thì trái táo, khi thì một vốc hạt dẻ, và có lần là một bộ sưu tập
tem. Bất cứ khi nào chủ đề về tương lai của tôi được bàn thảo trong nhà, tôi
luôn hy vọng có người đề nghị tôi sẽ được
nhận vào công việc bình thường ở nông trại
nhà Hayward. Tôi muốn thế. Nhưng mẹ lại có chủ đích đưa tôi vào phục vụ viện
Nhà Trắng. Tôi không nghĩ bà coi trang trại Hayward là những chủ nhân đủ xứng đáng cho tương lai
của một đứa con gái dòng họ Willoughby.
Sau khi ăn sáng và rửa chén bát xong, tôi
rời nhà đi làm, tôi lên vườn băng qua những lùm cây, những cọc rào để vào cánh
đồng nhà Tylers. Coi kìa, có người đang
vạch cái hàng rào nhà ‘tổ cú’ chui ra. Thì ra là ông Barshinskey.
Thật bất ngờ và ngạc nhiên khi lại gặp ông, trông ông
càng to lớn, càng…khác lạ. Hôm nay quanh
sườn ông đeo một sợi dây da làm cho ông trông gọn gàng hơn trong chiếc aó khoác
ngoài, ống quần được bó vào trong giày. Trên đầu ông là cái mũ dẹp đội chéo, và thay vì cài hoa dại vàng,
trên đó là một nhánh bông mận hoang nở rộ gài trên giải băng. Bỗng nhiên tôi thấy
xấu hổ không dám mở lời, nhưng đã không
thành vấn đề. Ông bước ngay tới trước mặt tôi nở một nụ cười, cái cười y hệt
Ivan.
- Nè!
Chào cưng nhỏ!
- Xin chào bác Barshinskey!
- Ha!. – Ông lắc lư cái đầu qua lại như một con
chó to và tỏ ra hết sức phấn khích . -
Nhỏ biết ta là ai rồi à, cái con bé này?
- Cháu biết bác làm việc chung với bố cháu,
thưa bác. Gia đình cháu ở ngay cạnh nhà bác đây.
- Dĩ nhiên, Đúng rồi. Cưng nhỏ là con cái
nhà Willoughby đây. Vậy là nhỏ sẽ chơi với
Galina của ta, và cả con Daisy May nữa. -
Khi ông nói tới tên Daisy May, giọng ông nghe khá kỳ dị và lạ hoắc, cái
môi trề ra kéo lê hai chữ làm một. Tôi
nói :
- Thứ Bảy cháu không có đi chơi. Cháu cũng
đến nhà ông Hayward làm việc như bác.
- Tốt! Vậy thì mình cùng đi.
Nói rồi ông đưa bàn tay vĩ đại của ông ra,
một bàn tay trông hoàn toàn không thể nào chơi đàn vĩ cầm giỏi hay vắt sữa bò
lành nghề được. Tôi còn đang lưỡng lự, ông đã
nắm lấy mấy ngón tay tôi.
- Vậy thì , cháu tên gì hả cưng nhỏ?
- Cháu là Sophie, thưa bác!
- Sophie… Ho hum… - Ông nhìn xuống, lại nở một nụ cười, và gương mặt ông, trong ký ức , tôi chỉ
có thể diễn tả nó rực sáng. Đứng gần ông mới thấy rõ đôi mắt
ông không đen như thoạt nhìn lúc đầu. Đó là đôi mắt màu nâu
vàng ấm áp đang mỉm cười và quan sát tôi và biểu lộ đủ loại ý tưởng lạ lùng hay
ho. Ông bắt đầu ư ử trong miệng một đoạn
nhạc , rồi từ từ bật ra thành từ, những
từ ngữ lạ mà tôi chỉ nghe được hai chữ
Sophie. Chúng tôi đi lên đồi, một người ca hát, một người bối rối im lặng.
Ông ta thật kỳ diệu, to lớn và ấm
áp. Tay ông mạnh mẽ quá làm tôi bắt đầu hiểu vì sao ông có thể
chơi vĩ cầm và vắt sữa bò. Tôi trộm liếc
nhìn ông. Tóc râu, toàn một màu đen nhánh, bóng bẩy và gợn són, dường như chúng cũng rực lên trong đời sống của riêng
chúng.. Từng cử động trên cái miệng, từng bước đi dưới đôi chân, từng âm thanh
của giọng nói trầm trầm như nổ ra từ trong sâu thẳm của lồng ngực biểu lộ một năng lượng đầy xung mãn như muốn vỡ oà.. Ông nhìn tôi ,
ngưng hát và lại cười.
- Sao cưng có thể nhỏ xíu như thế, con bé
Sophie này.! Nhưng mà để coi, - Ông nhìn xung quanh. - mọi vật ở cái đất Anh
quốc này có gì không nhỏ, không tí hon. Nhìn khu rừng kìa! – Ông vẫy tay về
phía mảng cây um tùm rậm rạp
chia cách cánh đồng nhà Tylers và con đường. - rừng bé tí, đồng bé tí, con gái cũng bé tí. –
Khi ông nói tới chữ ‘tí’ , giọng ông bốc
lên . âm thanh thì nhỏ lại cho hợp với chữ
nhỏ.
Rồi ông tiếp tục nói, giọng lại trầm xuống
trong một âm điệu sầu muộn:
- Ta đến từ một nơi, cái gì cũng to lớn, vĩ
đại. – Ông lại lắc lư cái đầu. – Cưng phải
đi coi núi rừng nơi ta từng ở. Cây cối
to lớn, um tùm hiểm hóc. Nhỏ mà ở đó vào
ban đêm, coi chừng có chó sói và cả gấu nữa. Ban ngày cũng có luôn.
- Bác từ đâu tới vậy, Bác Barsinskey?
- Nước Nga. – Ông buồn bã nói và thêm :
- Một đất nước khổng lồ.
Lúc đó tôi không thể nhớ nước Nga nằm ở chỗ nào., và như thế phải chờ tới tối mới
có thể vào phòng khách mở coi cuốn bản đồ
thế giới. Nhưng mọi người ai cũng đều nghe nói về nước Nga và biết đó là một vị
trí xa lạ và hoang sơ. Nhưng ở tại đây, đang có một ông Barshinskey, một người
Nga bằng xương bằng thịt, một người đang đi làm việc nuôi bò sữa trong nông trại
Hayward. Và người ấy đang nắm tay tôi.
- Ở
nước Nga, - ông nói tiếp - Có giống đại
bàng hay tập kích tấn công những loài vật nhỏ ( như tôi đây). Nếu chúng lỡ làm
rơi xuống đất , thì lũ gấu và chó sói cũng tới đớp liền.
Bỗng nhiên, ông nhấc bổng tôi lên đưa lên
ngồi trên vai ông. Từ trên cao, tôi thấy
được con đường, , mảnh rừng rậm rạp và xa xa là đồng cỏ nhà Haywards thả đầy bò.
Ông ngửng đầu lên nhìn tôi và bật cười lớn, cái cười vang dội phô ra hàm răng trắng toát. Và khi thấy tôi cũng
cười theo. Ông thúc nhẹ cái đầu vào cạnh
sườn tôi. Cái mũ đội trên đầu ông lệch qua một bên, ông làm một cử chỉ nháy mắt.
Trong khi đang ngồi trên vai ông nhìn mặt đất từ từ biến nhanh dưới bước chân
sải dài vững chãi, một cảm giác ấm áp và bất lực thâm nhập vào toàn thân tôi.
Nó phát xuất từ đôi vai to lớn ấy, nguồn
năng lực và nhiệt lực chảy ngược lên làm tôi cảm thấy vui sướng, hài lòng,
nhưng đồng thời lại vắt cạn những gì thuộc
về riêng tôi, cái con bé Sophie này. Tôi vòng tay ôm lấy đầu ông, phần để giữ
thăng bằng, nhưng thực ra chỉ vì không
biết làm gì khác. Ông giống như một thỏi nam châm. Ở cạnh ông chỉ cho ta cái cảm giác cần phải chạm vào ông. Cuối cùng, ông lại ca hát, bài ca sầu thảm mà ông đã chơi
quanh đống lửa trong đêm.
Kết thúc bài hát, ông lại ngửng đầu lên và
hỏi:
- Có lẽ ta sẽ làm một bài ca nho nhỏ cho cưng nghe con bé?
Một bài ca đặc biệt dành cho Sophie. Nhỏ
có muốn không?
- Có chứ ạ! Thưa bác!
Một làn sóng ganh tỵ giùm cho Ivan và
Daisy May thoáng qua trong tôi. Thử tưởng
tượng có một người cha như thế.
- Rồi bác sẽ chơi bài nhạc cho cháu này với
cây vĩ cầm của bác chứ?
- Có thể có. Cũng có thể không.
- Thế cháu có thể học chơi vĩ cầm được không
bác?
- Không!
- Sao thế?
- Người nước Anh không có tâm hồn để chơi vĩ cầm . Họ nhỏ nhoi quá.
- Cháu chơi được dương cầm mà.
Đong đưa trên vai ông, tôi nói một cách mơ
mộng. Còn ông lại làm một tiếng ‘xì’ ra ý ông nghĩ gì về những người chơi
dương cầm. Rời con đường tiến vào cánh đồng của ông Hayward, những con bò đang
thảnh thơi gặm cỏ, chúng tôi dừng lại. Ông Barshinskey nhìn quanh cánh đồng và những con bò, rồi bỏ
tôi xuống đất. Tôi cảm thấy lạnh. Dường như trong tôi có gì vừa mới bị cắt
chia.
Khi băng qua cánh đồng, đàn bò tiến về
phía chúng tôi và ông Barshinskey bắt đầu gọi chúng bằng một thứ
ngôn ngữ lạ tức cười của ông: Poppee…Daizee…Victorieeea…, và chúng tiếp tục tới
gần và sục mõm vào sườn ông, và cứ đi theo sát cạnh, thỉnh thoảng lại ngửng lên dùng đầu húc khẽ vào ông một cách mơn trớn. Điều này không có gì ghê gớm, Có điều, ai hiểu
biết về loài bò, đó là điều khó tin. Chúng là loại sinh vật tò mò. Khi thấy con
người, chúng thường có phần chăm chú nhìn, Nhưng khi ta bước tới gần, chúng lại
nhút nhát quay đi. Ông Barshinskey mới chỉ
làm ở nông trại có một ngày mà đã thu hút được chúng giống như nhân vật
truyền thuyết Piped Piper thành Hamelin.
Ông vuốt cái mũi mềm của một con, xoa tay lên mông
một con khác, rồi ông bỗng dừng lại nhìn chăm chú vào một con trong đàn. Ông
xua nhẹ những con khác qua một bên rồi khom mình xuống quan sát con này, chạm nhẹ lên mấy bầu vú của
nó.
-
Không xong! – Ông lẩm bẩm. - con này không xong rồi. Rồi ông vỗ nhẹ cho nó
bước đi trước ông, từ từ tách khỏi đàn
đi về hướng cổng ở cuối cánh đồng.
- Để ta mang con này về cho papa của cưng. –
Ông bảo tôi. – Con này đang ốm đây!
Ông bước qua cổng và biến vào trong cái
chòi ở sau nông trại, bỏ lại mình tôi với
tâm trạng rối rắm, phấn khích và cảm thấy mình, trên một phương diện nào đó
cũng không khác đàn bò đã theo ông trong
cánh đồng. Tôi còn đang đứng nhìn ông đi
khuất khi ông Hayward đi tới và bảo tôi
trở về chỗ làm việc cho ngoan bởi
vợ ông hôm nay rất bận rộn.
Tôi yêu bà Hayward. Tính bà nghiêm nhưng không thay đổi thất thường như mẹ tôi.
Là một Kitô hữu như chúng tôi nên bà cũng phải nấu nướng ngày thứ Bảy(để giữ luật
Sabbath). do đó bà cần người giúp đỡ công việc
làm sữa. Bà mới hoàn tất việc lấy kem ra khỏi sữa và chuẩn bị khuấy khi
tôi đến.
- Bác
gái Hayward ơi! chắc bà không đoán được việc này đâu. – Tôi nói, bởi vì đang cần chia sẻ tin về ông Barshinskey với một
ai đó. - Bác thợ nuôi bò sữa mới có thể kéo đàn bò đi theo ông ta, và vừa nhìn
thấy con Tansy là ông biết ngay nó bị ốm. Ông đã đưa nó ra khỏi đàn Và bác gái biết không, ông là người nước Nga
đó!
- Cháu bỏ phần kem nổi này vào trong tủ đi, rồi bắt đầu rửa chảo. Sáng nay có nhiều
việc phải làm. – Bà nhíu mày. – Con Tansy bệnh ra sao?
- Cháu không biết. Nhưng ông Barshinskey vừa
thấy nó là nhận ra nó đang ốm.
- Vậy thì cháu đi khuấy bơ đi trước khi rửa
chảo, Tay cháu có sạch không đấy?
- Dạ có thưa bác gái. – Tôi giơ tay ra cho
bà coi. Được khuấy bơ là một vinh dự lớn,
và ít khi bà cho tôi làm. Tôi hì hục quay cái dầm cho đến khi bơ xuất hiện, từng đốm nhỏ vàng
ánh nổi trên bình sữa . Bà Hayward đã đi
gặp chồng nói chuyện và khi bà trở lại trông có vẻ lo âu.
- Tansy không được khoẻ. – Bà nói. - Bố cháu đang
chăm sóc nó. Sophie, tốt hơn cháu đưa phần bơ đó đây để bác lo tiếp. Còn cháu đi rửa chảo và sau
đó thì cọ sàn.
Tôi tiêu cả buổi sáng trong giấc mơ tôn thờ
ông Barshinskey như một thần tượng. Có những điều bất thường trong đời sống của
ông tôi đã không lý tới, hoặc cho dù thấy, tôi đã không nối kết chúng với ông,
với khuôn mặt có kích thước anh hùng. Đúng là tôi biết người vợ của ông
phải đẩy chiếc xe nặng nề, và đám con ông bị đói, nhưng những điều này chẳng
liên hệ gì tới một ông Barshinskey anh
hùng, người đang sắp viết một ca khúc cho riêng tôi.
Khi đến giờ về
nhà, tôi cố nán lại một hồi, hy vọng ông Barshinskey cũng ra về, nhưng không thấy
bóng dáng cả ông lẫn Peter Hayward đâu. Có lẽ họ đang bận rộn vì con Tansy. Cuối
cùng tôi đành về một mình, đi qua khu rừng nhỏ của tôi nơi
chẳng có những con gấu hay chó sói hay đại
bàng chờ để tấn công. Chỉ có Ivan đang ở
đó . Hắn đang lượm củi bỏ vào bao.
- Chào! – Hắn nói, hơi kéo lê chân một chút,
rồi tiếp. – Cám ơn …nhỏ nghen ! Về ngày hôm qua í. Nhỏ đã chăm sóc tốt cho
Daisy May. Nó có nói với tao.
- Ivan!
Sao anh không bảo tôi anh từ nước Nga đến?
Hắn bỗng đứng yên như tượng đá. Rồi bàn tay chụp lấy cái bao củi và đứng thẳng
người lên, chăm chăm nhìn tôi với khuôn
mặt đầy buồn rầu phẫn nộ.
- Tao không từ nước Nga tới. - Hắn phân minh.
- Tao là người Anh. Mẹ tao người xứ Dover và đã sinh ra tao ở Wateringbury.
- Nhưng bố anh, ông ta là người Nga.
- Ông là dân Nga. – Ivan nói một cách vô hồn rồi
quay qua tiếp tục lượm củi.
- Ồ Ivan, anh thật may mắn. Nào được nghe vô số chuyện hay ông kể. Được
nghe ông chơi vĩ cầm tuyệt vời. Bố anh
còn nói chuyện được với đàn bò nữa chứ. Ngay cả bố tôi làm việc cả đời với
chúng cũng làm không được. Bố anh thật khác thường Ivan ạ. Tôi ước gì có được
ông bố lạ thường như anh.
- Đừng ngu ngốc!
Nhỏ chẳng biết gì về ông ta cả. Vậy thì nên câm miệng lại.
Hắn đứng thẳng lên, cao lớn với gương mặt
lợt lạt và đôi mắt bỗng dường như xếch và rực sáng hơn. Hai đứa đã từng cãi lộn,
nhưng lần này thì khác. Hắn nói với tôi như một người lớn nói với con nít. Tôi
e ngại rằng đã làm hắn tổn thương nặng nề mà không hiểu tại sao.
- Có vấn đề gì Ivan?
Hắn
chỉ bỏ đi. Từ phía sau lưng, trông hắn bỗng giống hệt ông bố. Hắn không to con, nhưng nhìn dáng đi của hắn,
những bước chân sải dài mạnh bạo như hơi muốn đe doạ làm cho ta quên đi cái thân
mình mảnh dẻ với chiếc quần tả tơi. Tôi
quên đi sự thần kỳ của ông Barshinskey và trở nên tức giận Ivan. Mọi thứ từ sáng tới giờ thật là tuyệt vời, thế
nhưng hắn đã phá hủy hết. Bởi vì cái gì
chứ? Vì
tôi đã thần tượng hoá ông bố của hắn?
Bước vào nhà có một bữa ăn ngon miệng đang chờ sẵn, thịt trừu nướng rưới nước sốt bạc hà ăn với khoai tây trộn và bắp cải tươi, nhưng tâm trạng
tôi đã tiêu tan và không còn thấy ngon miệng như những bữa ăn ngon vào thứ Bảy
từ trước. Bố về nhà muộn và mẹ đã phải
giữ phần ăn của bố cho nóng. Khi ông về
tới thì toàn những chuyện về ông Barshinskey, về con bò Tansy với bệnh viêm vú.
- Tôi chưa hề thấy như vậy bao giờ mình ạ! - Bố nói với một sự linh
hoạt khác thường. - Ông ta lựa nó ra ngay cả trước khi có bất cứ triệu
chứng nào khả nghi. Làm cho tôi và ông Hayward
phải quan sát một thời gian mới cảm thấy bệnh viêm vú đang xuất hiện. Cho tới lúc chúng tôi đã hoàn toàn xác định bệnh
trạng, ông ta đã chuẩn bị xong thuốc trị
và đắp thuốc lên chỗ đau cho nó. Tôi có thể
chắc rằng nó sẽ mau khỏi thôi. Chiều nay ông ta sẽ đi coi lại
cả đàn bò. Nếu có gì thấy nguy hiểm,
chúng tôi sẽ vắt kiệt đám sữa độc hại ấy
đi. Vừa vắt sữa, ông vừa ca hát cho đàn bò nghe, dĩ nhiên với ngôn ngữ riêng của ông. Mặc dù là tay nghiện rượu, ông ta có vẻ đàng hoàng. Ồ
quả thật, tôi phải công nhận một điều: ông Hayward đã lựa đúng người.
- Điều khốn nạn là ông ta chẳng tốt với đám
con như với đàn bò. - Mẹ lạnh lùng nói. -
Cái con nhỏ đó sáng nay có qua đây hỏi xin bánh ngọt và một ít trà.
Tôi sững người . Chắc chắn
một Daisy May, từng giả bộ coi chiếc áo sơ mi đàn ông là chiếc áo khoác đặc biệt và từng dám chống
lại bọn Brenda Jeffort khủng khiếp chỉ vì một tấm cạc đẹp sẽ không đến ăn xin mẹ
như thế.
- Đứa nào vậy mẹ?
- Con nhỏ
nước da ngăm ngăm, bận chiếc áo dài rách rưới bẩn thỉu và có một lối xin xỏ đểu
cáng.
- Rồi mình có cho nó bánh và trà không? - Bố
hỏi.
- Không, Tôi bảo nó là sẽ tự mình đi qua bên
ấy coi mẹ nó thế nào. - Môi mẹ hơi cong lên . - Nó lên tiếng chửi thề. Có điều tôi không hiểu vì nó dùng ngôn ngữ lạ. Rồi nó cau có bỏ chạy.
– Bà trừng mắt quanh bàn nhìn Lillian,
Edwin và tôi. - Nếu nó là con cái nhà
này, mẹ biết sẽ phải làm gì.
Vâng , đúng thế; và chị em tôi cũng biết.
Nhưng sau đó khi làm công việc ngày thứ Bảy của tôi ở nhà là kỳ cọ mảnh sân gạch trước nhà sẵn sàng cho ngày Chúa Nhật,
tôi ghi nhớ lại câu chuyện và thấy chán
chường biết bao về việc gia đình Barshinskey
lại gây thêm một điểm xấu với mẹ. Họ là
bạn tôi, đặc biệt ông bố và Daisy May. Mỗi giây phút tôi sống với họ vào mùa hè năm ấy , thôi đành thông cảm cho mẹ.
Chiều hôm đó tôi có gặp Daisy May một lần ở
trên tiệm bán tạp hóa trong làng. Edwin lỡ tay làm bể cái chụp đèn nhà bếp (thế
nào cũng bị nghe mắng điếc tai), và tôi phải lên chợ mua ngay trước khi tiệm
đóng cửa. Daisy May đang ở đó, mặt đỏ ké
và trên tay có vài đồng bạc. Tôi nhớ bố
vừa mới nói ở bữa ăn là ông Barshinskey
đã hỏi lãnh hai ngày lương. Cô bé đứng nhìn những hộp bánh bích qui, những gói
nho khô và trái vả, những hàng trái cây hộp chất trên kệ dọc theo tường đằng
sau ông Sitford. Rồi cô hỏi mua một ít
hạt gạo lúa mạch. bơ và một bao nến. Sau khi ông Sitford
đã tính giá tiền xong. Cô bé nhìn vào mớ tiền trên tay rồi hỏi ông có còn bánh mì cũ (làm hôm trước) không.
Tôi bước vội ra ngoài tiệm và làm bộ như vừa
mới đến. Không ai muốn người khác biết mình hỏi xin một ổ bánh mì đã cũ.
- Chào Daisy May!
- Chào Sophie! - Cô bé
đang cầm một cái túi đi mua đồ, trong đó cùng với những thứ đã mua, cũng
còn một cái gì vừa dẹp vừa cứng. Khi nhìn vào, tôi thấy đó là cuốn sách về xe lửa
của Edwin.
- Sách không hay lắm phải không? – Tôi xin lỗi.
- Bởi Edwin chỉ mê một thứ là xe lửa. Anh chàng không hiểu là người khác có thể không thích xe lửa như
anh.
- Cuốn sách
đẹp quá !. – Cô bé nói rất nhiệt
thành, ôm chặt cái túi vào người. - Tớ nghĩ cuốn sách thật đẹp.
- Chờ chút, tớ đi lấy cái chụp đèn.
Khi tôi bước ra, cô bé vẫn đang ôm chặt
cái túi, y như lúc cô giữ chặt tấm cạc ở sân trường.
- Sao bồ mang theo nó chi vậy?
Do dự một chút, rồi cô bé trả lời:
- Tớ không biết cất nó chỗ nào. Tôi không
muốn Galina hay bất cứ ai trong nhà biết tớ có nó.
Tôi cho rằng mình hiểu điều cô bé nói. Ai
cũng muốn có những thứ thật riêng tư, kể cả đối với người trong gia đình. Nhưng
thực ra tôi chẳng hiểu gì cả, không phải lúc đó. Chỉ sau này tôi mới nhận ra vì
sao cô bé đã phải luôn luôn mang theo trong mình những vật sở hữu đặc biệt quý
giá của cô.
Trờ về gần đến nhà, buổi tối một đêm thứ
Bảy đã lờ mờ chập choạng trên đầu. Cứ theo tôi thì đó là buổi tối tệ hại nhất
trong tuần.
- Tớ ghét buổi tối thứ Bảy. – Tôi thình lình
nói, tự cảm thấy một lòng tin cần có thêm một lòng tin khác. Cô bé nhìn tôi thật
tò mò và hỏi:
- Sao thế! Thứ Bảy có gì khác lạ?
- Ồ!
Đó là tắm rửa, gội đầu, nhà tắm thì ướt át, mẹ hay nổi giận và bố lại
không vui vì tụi tớ không học thuộc đoạn Thánh Kinh trong tuần. Còn Lillian thật
dễ sợ. Chị ấy đang chơi đàn cho các bài Thánh Ca trong lễ Chúa Nhật. Vì thế chị ấy thực tập suốt
buổi tối. Đó là cách để trốn việc, không phải giúp chùi rửa
xoong nồi và lau sàn nhà.
Daisy nghe một cách thích thú. Cô bé hỏi tiếp:
- Thường Chúa Nhật bồ làm gì?
- Cũng chẳng làm gì nhiều. – Tôi trả lời hơi chán . - Ngoài việc
đi dự lễ , mặc quần áo đẹp ngồi
nghe thuyết giảng và ăn uống. Có cái là
được ăn ngon và mẹ tớ luôn luôn dịu dàng. Buổi tối thì hát thánh ca, sau đó có
thêm bánh ngọt và uống cô ca trước khi
đi ngủ.
Daisy May nuốt nước miếng:
- Tại sao
được ăn ngon ? - Cô hỏi.- Có gì đặc biệt?
- Thế nào cũng có thêm một vài món, xà lách
hay cần tây trộn hoặc một thứ gì đó. Mẹ
luôn luôn mở một hộp mứt mới. Các loại bánh làm hôm thứ Năm. Lại có thêm cá khô, kẹo dẻo và trái cây…
Tôi đột nhiên ngừng lại, thấy mình sao quá vô ý thức. Thì ra tôi cũng tệ đâu thua gì Lillian. Cũng khoe mẽ đủ mọi thứ
trong bữa ăn ngày Chúa Nhật trong khi
gia đình họ chỉ có bánh mì cũ và bơ.
- Mai bồ có muốn qua nhà tớ dùng bữa tối
không?.- Tôi hỏi.
- Ồ! Không đâu, cám ơn…
- Tớ có thể mời một ai đó về nếu tớ muốn. Mẹ
nói là tớ có thể mời bạn đến nhà chơi
trong ngày Chúa Nhật . Vậy mai bồ qua nhé!
Phải. Mẹ có nói là tôi có thể đưa bạn về nhà, nhưng thường
phải cho bà biết tên trước để bà kiểm tra thông tin, và nếu người bạn qua được ải thông tin này, bà sẽ xin phép mẹ nó và cũng phải hiểu rằng trong vòng
hai tuần lễ , những lời ca ngơị sẽ được gửi trả. Vì vậy mà tôi mời Daisy May đến
ăn tối. Không chỉ là mời. Gần như là ép cô bé tới.
- Bồ có chắc là được không? Tớ nghĩ tốt hơn bồ hỏi mẹ bồ trước đã.
- Không cần đâu! – Tôi nói. - Bồ sẽ được
đón chào. Bữa ăn vào năm giờ rưỡi.
- Bồ chắc chứ? - Đôi mắt cô mở to và sáng rực, y như lúc cô
Thurston cho cô tấm cạc ở trường. Cô đứng
lại trong tay vẫn ôm chặt cuốn sách về
xe lửa chán ngắt của Edwin và ngỏ lời cám ơn tôi đã mời cô đến ăn tối. Khi đến cổng nhà, cô quay
qua hối hả nói:
- Tớ nghĩ
bồ có một gia đình hoàn thiện nhất mà tớ được biết. Gia đình bồ thật tốt, tất cả mọi người. trừ
Lillian. Ivan và tớ nghĩ vậy. Ivan không thích chị ấy. Nhưng những người khác,
gia đình bồ thật là…tuyệt diệu.
Nói xong cô bé bối rối biến vào trong khu
vườn ngôi nhà ‘tổ cú’.
Gia đình tôi thật tốt? Tôi buồn bã nhắc lại. Nhưng rồi cô bé có còn
nghĩ thế không nếu tôi
phải rút lại lời mời của tôi hoặc nếu cô đến dự bữa ăn tối với gia đình
tôi trong sự đối xử lạnh nhạt của mẹ?
Tôi dậm chân tức tối trên con đường về, cảm thấy tự ghét. Tại sao tôi lại làm vậy?
Không bao giờ học được bài học sao? Sẽ phải nói gì với mẹ bây giờ? Mẹ đã bảo tôi
không được chơi với đám con nhà Barshinskey, mà tôi giờ lại mời họ về nhà ăn
cơm tối. Rồi tối nay là tối thứ Bảy,
ngày mà mẹ hay nổi nóng , phòng tắm rửa
thì nóng chảy mồ hôi vì nồi nước nóng. Và rồi ngay khi bước vào cửa sau,
tôi đánh rơi cái chụp đèn bể tan. . .
“ Lạy Chúa! Con cảm tạ Chúa. - Tôi thốt lời cầu nguyện thật nhiệt tâm
trong đêm đó sau khi đã tắm rửa, gọn gàng sạch sẽ
trong bộ đồ ngủ mới gìặt (tuần 1 lần), tóc còn ướt sau khi gội. - Cảm
tạ Người đã mang đến những phép lạ. Người đã
lắng nghe con, con bé Sophie hèn
mọn, nhưng là một tôi tớ biết ơn. Người đã đáp lại lời khẩn cầu của con đến trăm
lần, không đến ngàn lần. Xin cảm tạ Người, lạy Chúa. Con xin hứa tứ nay về sau
sẽ học thuộc những bài học Thánh Kinh
nhanh chóng. Con sẽ không mơ mộng trong giờ lễ, sẽ không cắn móng tay, không chọc
giận mẹ con và cố yêu thương chị Lillian
của con. Con sẽ bỏ hết tiền tiết kiệm trong heo vào quỹ cứu giúp người bị phong
cùi lần cứu trợ tới, và con sẽ cố gắng luyện tập dương cầm hơn để có thể chơi
các bản Thánh Ca trong buổi lễ. Vâng, con sẽ không bao giờ quên việc Người đã
làm hôm nay. Lạy Chúa, xin Người nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của con.
Amen.”
Về phép lạ, một việc khó tin đến nỗi không
thể nghi ngờ đó là một phép lạ đã xảy ra:
Vừa khi tôi đứng ở cửa sau nhìn xuống cái
chụp đèn bể nát, sững người vì sợ hãi, cánh cửa bỗng mở ra và mẹ ôm một đống nệm
giường đẩy qua.
- Tránh ra, Sophie!
- Cái chụp đèn đã bị vỡ rồi kìa mẹ. – Tôi tiết
lộ.
Và mẹ, thay vì giận dữ, lại có vẻ kích
thích.
- Ồ!
Mẹ bước ra đâu có thấy con ở cửa. Đáng lý con phải tránh cho nhanh.
Không sao, Hôm nay tạm dùng nến vậy. Mẹ muốn con mang cái bình nước nóng trong
đó qua nhà Barshinskeys cho mẹ. Cẩn thận đừng làm đổ ra mà bị phỏng. Rồi con trở
về đun một nồi khác.
Không thể tin được, tôi nhìn mẹ khệ nệ mang đi.
Lương tâm tôi có một thoáng hối hận vì đã để cho mẹ tưởng bà làm bể chụp
đèn vì va vào tôi, nhưng thoáng đó qua thật mau với một trời nhẹ gánh.
Tôi mang bình nước nóng qua tới nhà
Barshinskeys, mẹ chặn ngay ở cửa để đón lấy rồi bảo tôi về nhà ngay., nên tôi
chẳng hiểu có chuyện gì bên trong.
Chi tiết về phép lạ từ từ xuất hiện qua một
diễn tiến độc thoại suốt buổi tối khi bà
trở về nhà tắm rửa, gội đầu, pha nước nóng cho người kế tiếp và lau sàn.
Khi tôi còn đang ở tiệm, mẹ đã qua nhà để
coi những yêu cầu của Galina về bánh ngọt và trà ra sao. Từ đó, mẹ khám phá ra bà Barshinskey
đang nằm trên một cái khung giường với một bao nệm cỏ chút xíu. Màn tự hào mỏng manh mà mẹ con bà
đã giữ đêm đầu tiên mới đến khi chị Lillian và tôi qua thăm đã sụp đổ. Sụp đổ vì đau ốm và cũng vì khám phá ra Galina đã qua ăn xin một mình, không phải cho
gia đình. Rồi bà Barshinskey, không còn mặt mũi, đã sụm xuống kể lể hết mọi chuyện với mẹ và rằng
bà không thể chịu đựng thêm nữa. Bà cảm thấy nhục nhã và không biết mọi thứ rồi
sẽ về đâu?
Bỗng nhiên, mọi chuyện trở nên đúng đắn đối
với mẹ, bởi giờ họ đã là một gia đình nghèo khổ bần cùng cần sự giúp đỡ và sẽ
bìết ơn và kính trọng bà. Giờ không còn
là chuyện ‘cá đối bằng đầu’. Giờ chúng
tôi sẽ là ‘bề trên’ tốt bụng.
Nếu bọn họ là con cái đám ăn mày, có lẽ vấn
đề đã khác. Nhưng khi câu chuyện
được kể ra, rõ ràng họ không là bọn ăn xin, và như thế chị em chúng
tôi sẽ không bị lây nhiễm khi chung sống
với họ. Ngược lại , chúng tôi còn có thể cải thiện vì sẽ phải
bận rộn trong việc luôn luôn phải làm gương mẫu. Dĩ nhiên, họ cần phải biết vị trí của họ. Một khi để họ
nói năng hay cư xử như là họ cho rằng họ
cũng tương xứng, có lẽ mẹ sẽ đối xử lạnh
nhạt. Thế nhưng , ít ra bà Barshinskey
dường như nhận ra đưọc tình trạng thực tế của bà và bây giờ mẹ đã đứng về phía
bà.
Được biết, bà Barshinskey từng là hội viên
của giáo phái Thân Hữu tại Dover. Bà cũng từng là một quản gia trong một gia đình khá giả ở ngoại thị trấn
Dover, nơi đó bà gặp ông Barshinskey, và
bất chấp lời khuyên nhủ ngăn cản của bạn
bè trong hội, bà đã lấy ông làm chồng. Ông
Barshinskey là người gốc Nga và đang làm trong một nông trại. Và bà chỉ biết có
nhiêu đó về ông. Thực ra , bà chẳng yêu
chuộng gì ông ta, một ông chồng tệ bạc, chẳng bao giờ giữ được một công việc
nào lâu dài, không bao giờ có một đồng xu dính túi. Tới đây, mẹ tôi bắt đầu kín
môi miệng không muốn nói thêm trước mặt
chúng tôi.
Bà Barshinskey theo chồng di chuyển từ
làng này qua xóm khác, hết nông trại này đến nông trại khác, mỗi ngày mỗi nghèo
đi, càng bị coi thường hơn, nhưng nhất quyết từ chối sự giúp đỡ của hiệp hội.
Bà nói rằng bà quá xấu hổ vì đã không nghe bạn. Và bây giờ tình trạng bi đát
như thế: đau ốm ( Mẹ gửi cho bố một cái nhìn có ý nói không nên nói về tình trạng bệnh tật
này trước mắt chúng tôi) mà không có
một mái che ở trên đầu hay một tấm
nệm đàng hoàng để ngủ. Còn đám con bà muốn
nuôi nấng dạy dỗ nên người, Galina, đứa con gái lớn đã trở nên mất nết, gõ cử
đi xin ăn và ăn ngủ ngoài trời bên đống lửa trại với bố. Hai đưá nhỏ còn lại bà chẳng biết ngày mai sẽ
ra sao vì việc học hành của chúng bị tụt hậu vì cứ phải di chuyển liên tục và
bà cũng không đủ sức nuôi ăn chúng, nói chi đến việc sắm sửa quần áo đồ dùng
cho chúng. Và nếu không có Daisy May, đứa con gái nhỏ nhất lại là tay đỡ đần
nhiều nhất thì bà không biết phải làm gì với lần di chuyển cuối vừa rồi vì bà
quá đau yếu.
- Mẹ à! Con có thể mời Daisy qua ăn tối ngày
mai được không?
“Được” - Mẹ nói không một chút do dự, và sáng hôm sau tôi đã có thể mang một ít đồ cũ qua để cô bé đáng thương có ít đồ
tàm tạm coi được ăn mặc. Bố cũng đi kiểm tra lại cái lò nấu cũ coi nó có thể gắn
được vàp trong khu lò sưởi của nhà họ không. Làm sao tưởng tượng nổi người đàn
bà khốn khổ đó có thể cơm nước cho gia đình khi trong nhà không có lấy một cái
lò nấu?
Chuyện cứ tiếp diễn như thế, và bởi vì do
mẹ kể, nó từ một câu chuyện cảm động nho nhỏ biến thành một lời cay đắng cho sự
mất đi lòng kính trọng hơn là bi kịch của
một người đàn bà. Điều đó cũng chẳng sao, miễn là bà đã chịu giúp đỡ họ. Nhưng nhớ lại niềm kiêu hãnh của Daisy May về cái áo sơ mi đàn ông, tôi hy vọng cô bé sẽ
không hoàn toàn quên đi cảm giác của họ.
Bố ngồi đó đọc Thánh Kinh, và thỉnh thoảng
khoé miệng trễ xuống. Bố chỉ đáp lại mẹ có một lần. Đó là lúc mẹ bắt đầu kết án
ông Barshinskey, rằng ông ta đáng bị quất
roi da vào mông , đem quăng xuống ao( cho
cá rỉa?) etc…. Phải, mẹ nói là bà đã bảo bà
vợ ông bà phải nói gì với ông ta, phải
làm gì với ông ta. Bố đã rời mắt
khỏi cuốn Thánh Kinh và từ từ nói:
- Tôi mong mình không nên đổ dầu vào lửa giữa
chuyện vợ chồng, mình ạ! Mình nên giúp đỡ họ , đúng thế, nhưng mình phải để ông
ta yên. Đây không phải chỗ cho mình bảo một người đàn bà cách cư xử với người
chồng của họ. Một người đàn ông phải tự
lo đời sống của riêng mình, và việc ông ta làm với gia đình không phải là sự quan tâm của người đàn bà khác,
Câu nói của bố làm mẹ ngưng lại một chút,
rồi bà lại trở lại, lần này nói về việc
sửa chữa đồ dùng cũ của Edwin cho Ivan và làm sao kiếm một chỗ cho cô gái lớn để cô không lang chạ như một thứ gái giang hồ.
Sau đó, trong lúc bố sấy tóc cho tôi ở trước
lò sưởi, tôi thì thầm với ông:
- Bố ơi! Con không tin ông Barshinskey là
người xấu. Con thích ông.
Bố cười và nói nhẹ nhàng:
- Ông ta là một người thợ nuôi bò sữa giỏi,
Sophie ạ! Con chỉ nên nhớ điều đó thôi.
Chiều hôm sau, đúng năm giờ rưỡi, Daisy
May trong trang phục là bộ đồ cũ của tôi và đôi giày từ thùng đồ từ
thiện đến gõ cửa sau, mẹ nhìn cô một
cách xét nét , bà có vẻ bằng lòng.
- Cháu trông lịch sự lắm. – Bà khả ái nói.
- Đầu tóc cháu rất gọn gàng ngăn nắp. Để
bác cho cháu một dải băng cột tóc của Sophie. Cháu lấy nó cắt ra làm hai để xử
dụng cho ngày Chúa Nhật.
- Cháu cám ơn, thưa bác gái!
Daisy May, ngay cả khi mặc áo khoác làm bằng
sơ mi đàn ông và đi chân đất , trông cũng đã gọn gàng. Cô bé là một đứa trẻ
ngăn nắp sạch sẽ. Cô bé không xinh đẹp. Quả thực điều này có phần giống tôi, với
mái tóc hơi sáng màu bạc và mắt hơi xám,
thân hình không cao không thấp. Chẳng có gì để phân biệt giữa cô và tôi, cũng
chẳng có gì phân biệt giữa chúng tôi với hàng tá con gái da trắng xứ Kent tầm
thường khác. Nhưng cô bé luôn luôn gọn gàng.
Cô đi vào trong nhà bếp và nhìn lên bàn
ăn, cặp mắt hơi đảo quanh bàn rồi nhanh
chóng nhìn đi chỗ khác với sau gáy từ từ
ửng đỏ.
Ngày Chúa Nhật, mẹ luôn luôn dễ tính. Đó
là ngày mẹ thích nhất trong tuần. Không nấu nướng. mọi thứ ngon lành nhất được
bày ra trên tấm khăn trải bàn thêu tay . Có
cái hộp đựng bánh và dĩa đựng trái cây bằng thuỷ tinh mà bà Fawcett đã tặng
khi bà rời Nhà Trắng đi lấy chồng. Và cả nhà ăn mặc tươm tất, mạnh khoẻ, được
kính trọng và tài sản mọi thứ đâu vào đó. Một phần thưởng cho một tuần lễ cực nhọc không ngừng nghỉ của bà: từ miếng giẻ lau đến ông chồng
trong bộ đồ lớn, tất cả hợp lại và phô
trương thật hài hoà.
Bà cũng thích các buổi tham dự lễ. Ba lần
trong ngày quá nhiều đối với chị em tôi. Nhưng với mẹ, bà thích được trang phục
với mũ áo đẹp nhất đi vào phòng họp , biết mình trông sang trọng và thông minh,
rồi sau đó đi chung quanh tán gẫu chuyện trò với những người khác. Vậy thì bà sẽ
có chuyện gì trong cái ngày Chúa Nhật đặc biệt này? Câu chuyện về cái ‘tạo vật
rất tội nghiệp sống cạnh nhà tôi’ được kể lại thật chi tiết. Phản ứng thay đổi
từ kinh ngạc qua vui thích đến thỏa mãn: -
- Được đó! Ít ra bà cũng nhờ họ mà làm tốt
được nghĩa vụ tôn giáo của mình phải không
bà Willoughby?
Mẹ cười, không chỉ vì được khen ngợi mà còn vì cái bi kịch và sự kích thích của
câu chuyện.
Tôi sẽ không bao giờ quên bữa ăn tối đầu
tiên với Daisy May. Một phần sung sướng
vì cô bé có cách ăn uống trang trọng,
nhưng đồng thời cũng làm tôi muốn khóc. Cô bé cư xử như đang ở trong thánh đường. Cô nhìn thật lâu và có dáng sợ hãi vào chiếc khăn ăn thêu, và rồi khi thấy
chúng tôi đưa nó lên cổ, cô cũng làm theo, nhưng làm như nó là một mảnh ren mắc
mỏ. Cô quan sát cách thức mọi người làm. cỡ bao nhiêu bánh và bơ chúng tôi ăn,
trét cá hộp vào bánh thế nào, và ăn rau
làm sao cho đúng điệu. Đến khi mẹ cắt các loại bánh ngọt và mang đi quanh bàn, tôi nghĩ cô
bé sẽ từ chối không lấy vì cô chẳng biết
nên chọn cái nào. Mãi đến khi bố nói: ‘ Ngày Chúa Nhật , ai cũng được phép ăn
các thứ bánh, mỗi thứ một miếng’ , cô bé mới lấy lại sự bình tĩnh.
Mẹ đã cười và đối xử tử tế với cô . Edwin
thì bỏ vào dĩa của cô ít kẹo dẻo. Ngay cả Lillian cũng bảo nếu cô bé thích, cô có thể đến phòng khách nghe cô đánh dương cầm.
Tôi tưởng là chắc cô thích đi ra ngoài sân
chơi với con mèo Tibby với tôi, nhưng không, cô ở lại trong phòng, ngồi thật lễ
phép trên chiếc ghế sofa, tay khoanh lại trước bụng nghe tiếng đàn và quan
sát cái tủ đựng đồ sứ của mẹ, chiếc ghế
bọc da của bà ngoại , thùng đựng bích quy trên kệ và tấm thảm lót dưới sàn nhà trước lò sưởi. Tôi tưởng cô bé sẽ ngồi đó suốt
đêm, nếu vào lúc bảy giờ, khi chúng tôi chuẩn bi cho buổi họp lễ tối, ông Barshinskey
đã không đến đón cô. Ông gõ cửa. Khi mẹ bước vào phòng khách, miệng bà hơi tỏ
ra bất mãn:
- Daisy May!
Bố cháu đang chờ đón cháu ở cửa. Hình như mẹ cháu cần cháu.
Tim tôi bỗng dưng xốn xang. Tôi đứng lên bảo
cô bé:
- Để tớ ra trước bảo ông bồ sẽ ra ngay.
Ông ta đang đứng giữa sân, to lớn, bóng bẩy,
lấp đầy khoảnh sân với đặc tính của dân
Nga, âm nhạc và sự rổn rảng. Nhưng sau một
thoáng hài lòng với hình ảnh đẹp ấy, cái sự thất vọng về ông bày ra trước mắt:
Ngay cạnh ông là cô gái lớn Galina mà ông đang ôm choàng qua vai, Ivan đứng cách
xa vài bước phía sau . Tôi bỗng nhận ra rằng đây là lần đầu tiên từ ngày
họ đến tôi mới thấy ông ta đi cùng với đám con. Và rõ ràng,từ cái kiểu cô gái ôm chặt bố , còn
Ivan đứng phía sau buồn bã tức giận, ai là đứa con ông ta yêu thích nhất?
- Chào Papa! Daisy May nói một cách mơ màng.
- Bộ giờ con phải về sao?
- Mẹ mày cần con , cưng ạ! ( Vậy mà tôi cứ tưởng ‘cưng’ là tên riêng ông
đặt cho tôi).
- Vâng, thưa Papa. – Daisy May nói rồi cô băng
qua sân biến mất qua cái lỗ hở hàng rào.
Ông Barshinskey quay sang mẹ tôi:
- Nhỏ ngoan chứ, thưa bà! Con nhỏ Daizee…may
của tôi cư xử tốt chứ?
- Rất tốt, cám ơn ông Barshinskey. - Mẹ lãnh đạm nói.
- Còn nhỏ này thì thế nào?- - Ông ta
nói khi đưa tay đụng vào cằm tôi.
Rồi nhỏ sẽ thành bạn tốt của Daisyeeemay
chứ? Cả Galina nữa.
Tôi liếc nhìn Galina, và cô cũng nhìn tôi.
Và cái chúng tôi thấy làm chúng tôi khômg thích lắm. Mắt cô trong giây lát có sự
do dự. Một sự thiếu tự tin. Rồi nó lim
dim y như một con mèo lim dim đôi mắt.. Cô gái nhìn qua vai tôi và ánh lên một nụ cười, y hệt như nụ cười tôi đã
thấy trên gương mặt của Ivan và ông bố.
- Xin chào.
Cô nói với vẻ xấu hổ. Từ phía
sau, tôi nghe tiếng trả lời của bố và
Edwin:
- Nó đẹp quá, không phải sao? Con gái Galina
của tôi. Bộ nó không xinh đẹp sao? Tôi
đã đi khắp nơi, nhìn vào các người cha
cùng con gái của họ. và rồi tôi tự hỏi, không phải là tôi, thằng
Nicholai Barshinskey này có đứa con gái đẹp nhất thế giới sao?
- Có thể là như thế. Mẹ sửng cồ lên. – Đưá con gái Lillian của tôi
cũng xinh đẹp không thua ai, nhưng đó là
chuyện chúng ta không nên nói ra trước mặt chúng. Khi một đứa con gái cố giữ gìn sự gọn gàng trong sạch và đoan
trang, điều đó với tôi đã đủ. Và… - Bà cố
kiềm chế.- Tôi rất sung sướng thấy
Lillian vừa xinh đẹp vừa đoan trang.
Galina gục đầu xuống.. Cần cổ dài của cô cũng gập xuống và đôi mi
dài cong vút cũng đóng lại buồn bã.
- Nhưng dĩ nhiên. –Ông trả lời.- Đối với các ông bố và các bà mẹ, các con gái
đều xinh đẹp, con trai đều là anh hùng cả , không phải sao?
Với câu nói đó, ông cười vang lên và tới cạnh
Edwin chạm nhẹ lên cằm của anh. ‘ Một thằng
bé ngoan, có đúng không?. - Ông mỉm cười
với bố, và bố chỉ có thể cười gật đầu đồng
ý..
- Bây giờ. – Ông nói với một cử chỉ khoa trương, -
Quý vị đã khoản đãi con nhỏ Daisee…may của gia đình tôi. Vì vậy tôi xin
đáp lễ mời toàn thể gia đình quý vị tới tham dự bữa tiệc tại nhà Nicholai
Barshinskey này. Chúng tôi chẳng có nhiều đồ ăn, nhưng chúng tôi sẽ chia sẻ cái
chúng tôi có. Nhưng chúng tôi có âm nhạc, thật nhiều âm nhạc, và Galina sẽ hát
và nhảy múa cho quý vị xem, và chúng ta sẽ có lửa trại. Tối nay xin mời, các vị sẽ đến tham dự chứ?
Ô nghe thiệt là tuyệt vời. . Tôi liếc trộm
về phía Lillian và Edwin. Lillian trông có vẻ bất mãn và khiếp sợ, nhưng Edwin
dường như đang mỉm cười. Anh muốn chui qua cái hàng rào đó như tôi vậy.
“ Trong ngày Sabbath!” - Mẹ đang quờ quạng
tìm chữ, nhưng trước khi bà có thể thốt ra, bố đã chống chế:
- Cám ơn ! Ông thật tử tế ông Barshinskey!
Tiếc là chúng tôi còn phải đi dự lễ chìều Chúa Nhật. Sau đó chúng tôi cũng có âm nhạc riêng, Hai con gái
của tôi chơi dương cầm và chúng tôi còn
phải hát vài bài Thánh Ca. Hy vọng lần sau chúng tôi sẽ tới.
Xem ra không phật ý, ông ta vẫy tay:
- Lần tới, chắc chắn nhé! – Ông nói như hát
bằng một chất giọng trầm bổng tuyệt vời, bẹo nhẹ vào má tôi và nháy mắt rồi
xoay bước bỏ đi. Mặt trời cũng đã khuất trong sân.
- Xong! - Mẹ thở phào.
Ivan vẫn còn ở lại, đang đứng tựa vào cái
cũi chó. Trông anh có vẻ vừa như mong ngóng, vừa tự hào lại vừa bực tức cùng
lúc. Tôi kéo tay mẹ thì thầm. Vì là ngày Chúa Nhật nên bà quên cáu giận và nhìn
sang Ivan.
- Chúng tôi đã dùng bữa xong rồi, Ivan. Nhưng cậu có thể vào nhà ăn vài miếng bánh ngọt.
Anh ta(từ
đây sẽ không gọi anh ta là hắn nữa) chắc phải muốn lắm, vì tôi biết họ đã
ăn gì trong ngày hôm ấy: cháo mạch nha với bánh mì mốc và ít bơ, may ra thì còn
chút ít mứt táo còn lại mà mẹ gửi sang mấy
hôm trước. Nhưng anh ta nói:
- Không đâu, cám ơn bà!
- Tuỳ cậu! – Nói xong , mẹ quay lưng đi vào
nhà với bố và Edwin.
Tôi bước đến bên anh, cố nghĩ ra chuyện gì
để nói. Thật vô dụng để nói về điều tôi thực sự muốn nói, đó là về ông bố của
anh. Đã cố thử rồi, nhưng anh ta ghét
nghe điều ấy. Tôi cũng không thể kể chuyện
về việc Daisy May đến nhà ăn tối chung, e rằng anh ta lại nghĩ là con nhỏ
em gái nhận ân huệ. Vậy còn chuyện gì
khác?
- Mẹ anh
thế nào?
- Đỡ hơn, cám ơn! - Một hồi im lặng. Rồi:
- Daisy May giờ là bạn tui rồi đó!
- Tốt!
Nếu anh ta không muốn nói chuyện, sao vẫn
còn đứng cạnh cũi chó? Sao không về nhà? Và rồi…
- Nhỏ có nghĩ là bố của nhỏ có thể giúp tao
có một công việc không? Tao sẽ làm bất cứ gì. Tao đã từng làm ít việc ở nông trại,
trữ cỏ, gặt lúa , hái trái, chăn bò. Hầu như làm được hết mọi việc.
- Anh không đi học à?
- Không.
Anh mười ba tuổi. Đáng lẽ ra theo luật phải còn đi học ít ra là một năm nữa.
Nhưng thường thường ông Deacon lờ đi luật
lệ đó khi một gia đình quá nghèo. Và
cho dù cách nào thì quả là sẽ mất quá nhiều thời gian để tìm ra những thông tin về các trường học và tuổi
tác của một gia đình Barshinskey lang
thang rày đây mai đó.
- Được, tôi hy vọng bố sẽ hỏi ông Hayward
coi có gì cho anh làm…
- Không phải ở chỗ ông Hayward. - Ivan chặn lời. - Tao không muốn làm ờ đó.
- Được thôi! Vậy tôi sẽ hỏi bố cho.
- Hỏi ông , nhưng đừng hỏi trưóc mặt mẹ cô .
– Như có xốn xang trong lòng, anh ta nói
thêm .- Gia đình này không muốn ơn nghĩa
của mẹ cô. Nếu tao có một việc làm, gia đình có thể tự lực cánh sinh.
- Được rồi, Ivan!
Anh ngưng nói. Dường như anh ta cảm thấy nợ
tôi một lời giải thích.
- Đối với Daisy May lại khác. Nó còn quá nhỏ để hiểu biết, vả lại là con
gái. Mẹ tao đau ốm liên miên chẳng làm
được gì. Galina thì muốn gì có đó và cô ta chẳng thèm để ý.
Nhưng tao thì phải. Gia đình này không phải hạng ăn xin .
Tôi không trả lời vì quá bối rối. Quả thực chúng tôi đã nói về họ dường như họ
là phường ăn xin.
- Tôi sẽ hỏi bố!
- Được! Rồi nụ cười đã trở lại rạng rỡ trên môi anh, thích thú, giờ càng thích hơn
vì nó gợi tôi nhớ đến ông bố. Khi anh sửa
soạn ra về, cửa bỗng bật mở, Lillian đi
ra với phần bánh ngọt còn lại gói trong
giấy bạc.
- Phần này dành cho cậu.
Anh ta nhìn vào nó rồi quay đi:
- Không , cám ơn!
Lillian trông gần như quê mặt, lúng túng,
thừa thãi. Chị nói thật lạnh:
- Cầm lấy!
- Không.
- Xin cầm lấy đi , anh Ivan! - Tôi la lên và chợt một ý tưởng loé lên trong đầu. - Mang về cho mẹ anh. Nhớ làm cho bà một bình trà, tôi tin là bà sẽ
thích đó.
Anh vẫn còn ngại ngùng, và tôi đã giật lấy
bánh từ tay Lillian ấn vào tay anh:
- Tạm biệt.
Tôi chào rồi kéo Lillian đi vào trong. Và
thật lạ, tôi cứ tưởng mẹ đã xúi chị làm
thế, nhưng sau đó tôi lại nghe bà hỏi cái phần bánh đó biến đi đâu rồi.
(Xem
tiếp chương 3)
No comments:
Post a Comment