Australia: Đất nước của sự bao dung.

Tôi định cư tại Australia đã gần một phần tư thế kỷ. Cái hòn đảo cực lớn nằm ở tận cùng cực Nam thường được gọi là cái đáy của thế giới (the bottom of the world). Thật ra phải gọi nó là lục địa mới đúng cái tầm vóc to lớn ấy. Lãnh thổ thì mênh mông, nhưng dân số lại không đông (18 triệu theo thống kê 2004) đó là vùng đất khô hạn nhất trên địa cầu, đất đai đa số là sa mạc ngày nóng cháy, đêm buốt lạnh. Dù sao đây vẫn là một đất nước may mắn (a lucky country) như người dân xứ này thường tự hào khi nói đến xứ sở của họ:”Hỡi công dân Úc, hãy vui mừng vì chúng ta trẻ trung và tự do.”Câu mở đầu trong bài quốc ca Úc đủ nói lên niềm tự hào sung sướng. Sau sự sụp đổ của VNCH, những năm tháng tù tội, sau đó là thời gian dài lang thang vất vưởng, sống và làm việc bất hợp pháp ngay trên căn nhà của mình làm cho nỗi khao khát tự do của tôi mãnh lỉệt đến trở thành tối thiết. Bước chân lên con thuyền tỵ nạn mỏng manh, lênh đênh trôi dạt ít ngày rồi cũng đến bến bờ. Ước mơ thành hiện thực, nhưng niềm vui chất chứa thật nhiều cay đắng vì đã phải bỏ lại sau lưng tất cả người thân: cha mẹ, vợ con , anh chị em và bạn hữu. Không biết bao giờ mới gặp lại, không biết có còn dịp gặp lại nữa không.

Tuy nhiên, còn sống là còn hy vọng, dù sao cũng phải lăn xả vào đời sống. Khi những xúc cảm trong tâm hồn đã lắng đọng thì bắt đầu phải lo cho tương lai. Hòn đảo Bidong nơi con thuyền cập bến chỉ là mảnh đất tạm dung, quốc gia đệ tam nào sẽ là nơi cho mình ổn định những bước đi tới là 1 câu hỏi khó trả lời. Những người quen thân đến trại tỵ nạn trước thường cho lời khuyên là dù phải đợi lâu một chút, cũng ráng chờ để vào Mỹ, vì chỉ có đây là” đất nước của mọi cơ hội”. Thế nhưng sẵn trong lòng đang đầy ắp sự thương nhớ gia đình, thêm nỗi đau bị người bạn Đồng minh phản bội làm nước mất nhà tan, tôi đâm ra thất vọng và mất thiện cảm ngay lần đầu vào gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn, do cách làm việc của họ quá nguyên tắc và có vẻ trịch thượng, tôi quyết định đi bất cứ nơi nào, miễn rời khỏi cái mảnh đất này càng sớm càng tốt.

Khi phái đoàn Úc vào đến trại mấy hôm sau đó, tôi cảm nhận một sự khác biệt hoàn toàn: Cũng một giống da trắng mắt xanh, mà sao dân xứ Úc họ lịch sự và niềm nở quá; cũng những câu hỏi đó , mà sao họ hỏi mình với lối nói nhẹ nhàng thân thiện. Nói trắng ra, họ hỏi mình để đánh giá xem mình có xứng đáng để họ chấp nhận cho vào đất nước của họ sinh sống không, cách đối xử mang đầy vẻ chân tình, dường như đã ẩn chứa một sự bao dung? Lại cũng không tránh khỏi chuyện cười ra nước mắt. Số là trong lúc phỏng vấn, thấy trong hồ sơ tỵ nạn của tôi có ghi là biết chút tiếng Anh, họ muốn biết trình độ ra sao, nên họ hỏi học tiếng Anh ở đâu và bao giờ. Cái vốn liếng Anh ngữ của tôi lúc đó thuộc loại ba rọi (broken English), đã làm họ hiểu lầm: ý tôi muốn nói là đã học English trên mười năm trước đây, giờ chắc quên gần hết, họ lại hiểu là tôi đã học nó đến hơn mười năm. Có lẽ họ đã cho tôi là người nói láo hay kẻ khoác lác: Học đến hơn 10 năm mà nói “ẹ” quá vậy? May mắn có người thông dịch sửa lại cái chuyện hiểu lầm tai hại. Thực ra, đối với tôi, tiếng Anh chỉ là sinh ngữ thứ 3, được học mỗi tuần 2 giờ trong mấy năm bậc trung học, có bõ bèn gì. Nhân tiện, tôi đã kể cho họ nghe về 1 chuyện lầm lỗi khi tôi mới chập chững bắt đầu học Anh ngữ: Thời những người lính Mỹ mới đến miền Nam vào những năm giữa thập niên 60, khi thoảng họ có đến nhà dân làm công tác dân vận. Một bữa có 3 người lính mỹ vào nhà tôi, bố mẹ đều đi làm vắng. Tôi, một thiếu niên khoảng 15, 16 tuổi và đứa em gái khoảng 10 tuổi ra tiếp chuyện. Trong lúc bập bẹ vài câu tiếng Anh mới học ở trường, tôi chỉ đứa em gái tôi và giới thiệu: “ this is my daughter”. Ngay sau đó tôi thấy mấy chú lính G.I cứ thế mà trợn mắt lên: your daughter? Tôi càng nói “yes” thì họ càng trợn mắt lên , lại còn cười ngặt nghẹo. Mãi một lúc sau tôi mới chợt hiểu: bỏ mẹ rồi, “my sister” chứ không phải “my daughter”! Mấy người lính đã đi từ lúc nào. Câu chuyện tôi kể, đã làm cho phái đoàn Úc có được nụ cười vui. Dĩ nhiên, tôi không có gì trở ngại trên con đường nhập cư vào Úc. Đây chính là cái điểm khởi đầu của một đất nước bao dung.

Đặt chân vào cái xứ sở đầy rẫy các loại Kangaroo này mới thấy đời không như là mơ. Dân Úc thuộc loại tứ xứ, không phải ai cũng lịch sự, đàng hoàng như mấy ông bà trí thức trong phái đoàn phỏng vấn định cư hôm ấy. Trên 100 năm trước, khi viên thuyền trưởng người Anh tên Cook lần đầu đặt chân lên bờ biển của tiểu bang NSW hiện nay, Australia trở thành một trong những thuộc địa của đế quốc Anh rộng lớn. Vùng đất đã là nơi lưu đày biệt xứ cho tù nhân phạm trọng tội từ mẫu quốc. Không kể những thổ dân bản xứ với cuộc sống du mục và dân số không đáng kể, đám tội phạm và những người cai tù là những công dân đầu tiên. Sau đó, với các đợt đi tìm đất chăn nuôi và phong trào đi tìm vàng đã lôi kéo thêm số lượng đông di dân đến định cư, với hy vọng làm giàu mau chóng, Australia là xã hội đa chủng, chủ yếu vẫn là dân da trắng giống Anglo-Saxon với chính sách một nước Úc da trắng. Mặc dù chính sách này đã bị bãi bỏ một thời gian trước khi có sự định cư đông đảo của người Việt chúng ta, sự kỳ thị chủng tộc bị coi là một hành động vi phạm pháp luật, dường như nó vẫn còn tiềm ẩn trong một số người dân Úc da trắng, đặc biệt trong lớp người lớn tuổi có đầu óc bảo thủ. Những năm giữa thập niên 80 đó, những câu bài Á như: Asians go home (bọn Á châu cút về nhà đi) thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên những bức tường chắn dọc theo các tuyến đường xe lửa. Sự kiện một ông nghị viện gốc Việt ở Sydney sử dụng đám tay chân của mình để thanh toán một đối thủ chính trị là trò đê tiện đáng hổ thẹn, làm cho người Úc gốc Việt bị nhục lây. Ngay cả những chuyện nhỏ nhặt, nhưng khi được đưa ra công luận, như chuyện một người Việt, bị ông hàng xóm người Úc trông thấy đang thui một con chó để “nhậu”, đã gọi cảnh sát tới bắt quả tang và đưa ra toà án xét xử, cũng làm cộng đồng người Việt mang tiếng không ít. Một lão Úc già làm chung sở, sau khi đọc bản tin, quay về phía tôi mỉa mai: “Ê! tao có con chó, đừng tới bắt ăn thịt nghen mày”. Thật là vừa giận vừa mắc cỡ mà không làm được gì. Thật ra, đó chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi, đa số người dân Úc có tấm lòng bao dung và nhân hậu giống như cái xứ sở hiền hoà này. Chỉ với trên trăm năm lập quốc, đất nước tuy thanh bình, chưa hề có cuộc chiến nào xảy ra trong lãnh thổ của mình, nhưng vẫn đóng góp đầy đủ cả về tiền của lẫn nhân mạng cho các trận chiến lớn trong chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, chiến tranh Thế giới lần thứ hai và ngay cả cuộc chiến VN để bảo vệ cho những giá trị mà họ tin tưởng, đã sẵn sàng chấp nhận cho hầu hết các sắc tộc trên thế giới cùng hoà đồng và hội nhập để tạo nên một đất nước đa văn hoá có trên một trăm sắc dân khác nhau. “ Home is where you are happy”, nhà (hay quê hương) là nơi bạn thấy hạnh phúc, đã và vẫn còn là bài học Anh ngữ đầu tiên tôi thích nhất mà bà giáo đã dạy khi tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước đi trên cái vùng đất nồng ấm tình người này.

Tuần trước, một người Úc gốc Việt, Nguyễn Tường Vân, bị nhận bản án treo cổ vì tội buôn lậu 396 gr chất bạch phiến tại Singapore, một nơi rất giàu có, nổi tiếng về sự sạch sẽ, cũng được biết đến rất cứng rắn đến độ hà khắc về sự thi hành pháp luật. Dư luận, truyền thông, báo chí nứớc Úc đã bàn luận, tốn nhiều giấy mực trong những ngày qua. Mặc cho những lời van xin khẩn cầu, từ những nhà lãnh đạo có uy tín trên thế giới đến người dân thường, bản án đã được thi hành. Nguyễn Tường Vân đã lên giá treo vào sáng thứ Sáu 02/12/2005. Cho dù thất bại, người dân Úc, bao gồm từ chính phủ cầm quyền John Howard, nội các đối lập Kim Beazley, các dân biểu nghị sĩ, các tổ chức xã hội và tôn giáo đến người dân thường, đã chứng tỏ lòng nhân hậu, khoan dung vô bờ bến của họ. Đối với con người của Vân, xét đến nguồn gốc: một di dân người Việt; xét đến hành vi: tội phạm vận chuyển ma túy, thế mới thấy lòng nhân ái và sư tha thứ của người dân Úc quý hóa biết chừng nào.

Moị chuyện đã qua, cho qua, ngày thứ Tư 07/12, ngày tang lễ cho Vân được tổ chức tại nhà thờ chánh toà St Patrick tại Melbourne. Tôi muốn đến đó để chứng kiến một sự kiện khá lạ thường, một tang lễ trọng thể cho một nhân vật tầm thường, không thuộc dòng chính mạch, phạm tội hình sự bị hành hình. Điều quan trọng hơn , tôi đến để cảm nhận sự bao dung của người dân Úc đang được thể hiện. Tang lễ đã được thông báo khởi sự vào lúc 11giờ sáng. Rời nhà vào lúc 10.30, đoạn đường lái xe mất khoảng 20 phút, tôi nghĩ mình sẽ đến kịp giờ, không ngờ khi gần đến điạ điểm thì bị kẹt xe, đến nơi được thì đã trễ, chạy lòng vòng một lúc lâu nữa để tìm một chỗ đậu xe khá xa thánh đường, khi lội bộ đến nơi thì đã 11.30. Bài thuyết giảng của Linh mục Peter Hansen đã đi vào đoạn kết. Bên ngoài hàng rào sắt bao quanh thánh đường, ngay phiá trước tiền đường có khoảng vài trăm người tham dự, phía trong sân cũng có một đám đông tương tự. Phía hông trái là đoàn xe tang 4 chiếc toàn màu trắng. Cố gắng len lỏi vào phía trong thánh đường chật ních những người, tôi nhìn thấy chiếc quan tài màu hạt dẻ nằm giữa nhà thờ, trên nắp một vòng hoa lớn, sau đuôi là di ảnh của Vân. Bà Kim, mẹ Vân bận một chiếc áo trắng phía trong, áo vest(gi lê) đen phía ngoài, tât cả anh em và bạn bè đều mặc y phục màu trắng, những bộ suit chứ không phải áo vải xô, có lẽ là sự kết hợp giữa sự trang trọng dành cho người quá vãng của Tây phương và màu tang (trắng) Việt Nam. Những người tham dự gồm đủ mọi thành phần sắc tộc trắng, đen, vàng, già trẻ lớn bé. Số lượng giới trẻ tham dự rất đông, khoảng 1/3 là Á đông, có lẽ người Việt. Trên bàn thờ, khoảng trên dưới 30 linh mục (LM) cử hành đồng tế do LM P. Hansen chủ tế, trong số có 5,6 vị là người Việt. Một vị giám mục cũng có mặt với tư cách người tham dự. Vì sau nghi thức rước lễ, số lượng người nối đuôi chia buồn với gia đình quá đông, làm buổi lễ kéo dài lâu, tôi lại bận việc vào buổi chiều, nên phải ra về sớm, xin được để báo chí Úc tường trình thêm vào ngày hôm sau. Tiện xin được mở ngoặc để nói sơ về LM Peter Hansen, người chủ tế tang lễ, vì tôi được biết chút ít về ông. P. Hansen là một người Úc gốc Đức Cách đây chừng 7,8 năm, ông về làm việc tại giáo xứ nơi tôi đang ở với chức vụ phụ tá cho LM chánh xứ Kevin Dillon. Trong bài thuyết giảng trước khi P. Hansen tới, cha Dillon có nói với mọi người rằng:”Chúng ta thường hay đùa rằng: Luật sư là những người nói láo (một lối chơi chữ của Anh ngữ “Lawyers are liars), từ nay xin thận trọng, vì chúng ta sắp có một cha phó từng là luật sư. Ông LM từng là luật sư đó chính là LM P. Hansen. Hansen lúc đó nói tiếng Việt khá trôi chảy (có thể thuyết giảng trong nhà thờ bằng tiếng Việt) và đó là lý do tôi quen ông. Ông tỏ ra rất nhạy bén. Trong 1 buổi tiệc hậu Christmas ở nhà tôi có ông tham dự, khi một người quen trong gia đình kể chuyện quá khứ về những ngày trước 30 tháng 04/ 1975 tại miền Nam VN và gọi đó là ngày giải phóng, ông chỉnh ngay và bảo: phải gọi là ngày Sài Gòn sụp đổ mới đúng.

Ông thường dùng bộ chén lễ bằng sành mà ông cho biết đã được đặt làm tại VN để dâng thánh lễ hằng ngày, chứng tỏ ông rất bình dân. Hai năm sau đó, ông được chỉ định công tác giúp đỡ cho những người nghiện ngập ma túy, đặc biệt là giới thanh thiếu niên, tôi không có dịp gặp lại ông từ dạo ấy. Chính nơi đây dẫn đến sự việc ông liên quan tới việc biến cải Nguyễn Tường Vân cho đến những giây phút cuối đời kể cả hậu sự của Vân. Có nói qúa không khi bảo rằng Peter Hansen, một hiện thân của sự bao dung của nước Úc?

Trở lại với buổi tang lễ, Ký giả Karren Kissan của nhật báo The Age, tờ báo có thể nói là có uy tín nhất tại Australia đăng ngay trang nhất bài với tựa đề: Thành phố chia rẽ khi một biểu tượng được đặt vào nơi an nghỉ (City divided as a symbol laid to rest) viết:

“ Trong thời đại của những chương trình TV sống thực, ai cũng có thể trở nên nổi tiếng, và trong thời đại điện tử tân kỳ, ai cũng có thể làm phim, bất kể bằng phương cách nào. Hãy hỏi bà Kim, người mà hôm qua đã ngồi cầu nguyện suốt buổi trong một tang lễ rất lạ đối với bà, trong khi có nhiều người bà chưa từng gặp trước đó với máy chụp hình hoặc máy quay trên tay, cố chụp hình, quay phim bà…Điều đó xảy ra khi con người trở thành biểu tượng, nguyên nhân của tấn bi kịch gia đình, thành món ăn của giới truyền thông trong nhiều tuần lễ, khi hương khói cuồn cuộn trên cỗ áo quan cùng với sự tranh cãi cũng cuồn cuộn chung quanh con người đang nằm trong đó. Khi những người trong thánh đường cử hành nghi lễ chào đón một cuôc sống khác của một tử tội mà họ tin là sẽ tái sinh, những người khác bên ngoài lại giận dữ vì sự chú ý quá đáng của dư luận trong trường hợp này: Một Ông Bill ở Broadford nói với Jon Faine của đài ABC: “Tôi hoàn tòan lộn mửa vì sự tôn thờ Nguyễn quá độ: 1 phút im lặng, lời khen ngợi của đám luật sư, sư tham dự tang lễ của các chính khách…để dành cho tên tôi phạm ma túy? Người ta không coi xét đến những hậu quả gây ra bời các hành động tội ác này. Bọn chúng tham tiền và chẳng thèm để ý đến những đau khổ mà bọn chúng mang lại cho Australia. Taị sao lại còn đối xử với chúng như những anh hùng sau chiến cuộc? Ông tài xếi taxi bảo:” Nó biết luật lệ của quốc gia đó mà!Anh làm ác, anh phải có thời gian thụ án phạt (you do the crime, you do the time). Tuy nhiên, đối với nhiều người trong thánh đường, Nguyễn đã không được phép “do the time”, em đã bi treo cổ. Cái chết của em, hay đúng hơn, cái nguyên nhân của cuộc chiến chống lại án tử hình, đã thu hút nhiều tầng lớp người khác nhau ở Melbourne ngày hôm qua: những người Ấn Độ Giáo với bộ sari, người Hồi Giáo với chiếc khăn mạng choàng, một giảng viên triết học Công Giáo, linh mục Chính Thống, một tu sĩ Phật Giáo trong bộ cà sa. Irene Wilson, bà đang nghiên cứu thần học, đã vượt 350 km từ Mount Beauty để tham dự, bà muốn đến để chia buồn, cũng là để chứng tỏ người dân Úc đầy lòng trắc ẩn và tình bạn. Bà nói” Người dân Úc đặt trái tim trên tay họ như những con người có lương tâm . Reta Kaur, người Ấn đến từ Malaysia nói: ” Singapore là thành phố bằng đá với những con tim chai đá.” Stan, người Balan cho rằng:” anh ta còn quá trẻ, anh đã làm bậy, dĩ nhiên , nhưng án phạt quá nặng. Bao nhiêu người nhập lậu hàng tấn mà chả bao giở bị trừng phạt.”

Cuối bài viết Karren kết luận: “Trong khi lên rước lễ, một người đàn ông có dáng dấp Ái Nhĩ Lan đã không kiềm chế được xúc động, làn môi dưới luôn run rẩy. Môt bà cụ dáng dấp dân Địa Trung Hải vừa cúi xuống đặt nụ hôn vào cỗ quan vừa cố lau nước mắt. Một người Ấn cũng bước lên để nhận sự chúc lành (từ linh mục Công Giáo). Sự ra đi của Nguyễn đã tạo nên sự đoàn kết người Úc lại trong việc chống lại án tử hình, nó còn nối kết họ lại trong cái ý nghĩa như thế nào để là người dân Úc.

Trong khi đó, ký gỉa Steve Butcher trên tờ The Age, trong trang 2 lại chú trọng tới những diễn tiến sau buổi lễ. Ông viết:

“ Bắt đầu chỉ là tiếng vang nhè nhẹ sâu khuất đâu đó trong đám đông, rồi bỗng trở thành tràng pháo tay liên tục rộn rã; tuy không vang dội và điên cuồng, nhưng cũng là cử chỉ lạ lùng cho người tham dự buổi tang lễ. Khi chiếc áo quan của Vân từ từ tiến ra khỏi thánh đường nó đã khơi dậy một hành động thông thường và đơn giản nhất của công luận. Trong 6 tuần lể trước ngày bị xử tử ở Singapore, mạng sống của Nguyễn và cuộc vận động để cứu mạng sống ấy đôi khi đã làm chia rẽ đất nước. Có lẽ nhiều người trong số khỏang 4000 người tham dự tang lễ: Người Úc, Úc gốc Việt, linh mục, tu sĩ, chính trị gia, luật gia hay những công dân bình thường đều chỉ muốn một điều gì đó khi họ cùng vỗ tay sau buổi lễ trang nghiêm dài tới 100 phút . Trong số có Douglas Wood, một con tin bị bắt và được giải cứu ở Iraq. Các nhà chính trị có các nghị sĩ tiểu bang Bruce Mildenhal, Geoff Hilton, Kirsty Marshall, Richard Wynne, Nguyễn Sang và một dân biểu liên bang bà Anna Burke…Trong tang lễ có phần công bố lời thỉnh cầu viết tay của người chết xin được làm những gì trong buổi lễ, và đoạn nhật ký cuối cùng, Vân viết 2 giờ trước khi lên giá treo: “ Khi tôi nằm ở đây lắng nghe những lời cầu nguyện cho tôi, tôi sẽ đo lường lại tất cả những gì đã xảy ra và những gì sẽ đến” Gia đình Vân là Phật tử, nhưng Vân đã trở thành tín đồ Công Giáo sau ngày bị kết án. Trong thánh lễ, LM Hansen đã tấn công vào những tiếng nói của thiểu số muốn khuấy động cho sự trả thù. Ông cảnh báo rằng những điều đó chỉ tạo nên một thế giới với sự tàn nhẫn đến mức không thể nào chịu nổi. Ông Lasry, đại diện cho đoàn luật sư của Vân, nói về bài học “lớn” mà Vân đã dạy về cái mà ông gọi là”năng lực của sự thay đổi, sự biến chuyển, sự hoàn lương” ông nói:” trong 2 năm cuối đời của Vân, sự ích kỷ đã nhường chỗ cho độ lượng, sự thành thực đã thay thế dối trá, sự đòi hỏi được nuông chiều được thay bằng đời sống tâm linh. Bất cứ ai chứng kiến cũng phải cảm động.

Nhật báo Herald-Sun, tờ báo của ông đại tỷ phú truyền thông người Mỹ gốc Úc Rupert Murdoch, có số phát hành lớn nhất nước Úc có bài của Terry Brown trong trang 3:” Cathedral full of forgiving”. Ông viết:

“Ngày hôm qua, chuông nhà thờ đã ngân lên trong 10 phút khi những người tham dự tang lễ ngồi chật các hàng ghế, đứng chật những lối đi sát các vách tường, tràn ra cả ngoài sân nhà thờ. Họ đến từ khắp nơi trên nứơc Úc, có người từ tận Singapore. Sau nghi thức rước lễ, số người bao quanh 2 mẹ con bà Kim và Khoa đã quá đông và mất thì giờ đến nỗi các vị chủ tế phải can thiệp: “ Xin vui lòng về chỗ ngồi, quý vị đang choán hết thỉ giờ của buỗi lễ”. Hai bài hát được Vân yêu cầu hát trong tang lễ là Ave Maria và Amazing Grace. Vân cũng yêu cầu với tất cả mọi người tham dự, xin được thay thế lời chúc bình an, thường là những cái bắt tay, bằng những vòng ôm thân thiết. Ở đoạn cuối của lời vĩnh biệt viết trong những giây phút cuối, Vân viết:” Hãy tha thứ cho tôi vì những tội lỗi tôi đã phạm và xin chấp nhận những lời xin lỗi thành thật của tôi. Đã đến giờ thứ 11. Việc của tôi bây giờ đã xong”.

Đúng thế! Moị việc đã xong. Tôi tiếc là đã không tham dự hết buổi lễ, không đưa được em đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cũng như bao người khác đã sẵn sàng tha thứ vì em biết hối cải, cũng như bao người khác, tôi đến để cảm nhận cái lòng bao dung vĩ đại của đất nước này, tôi đến để học cái bài học quan trọng của đời người là sự biết hướng thiện, cởi bỏ gươm đao vũ khí là thành Phật. Australia khởi đầu được tạo dựng từ những tội nhân, nhưng ngày nay đất nước này là thể hiện của tình người, của sự nhân ái, của lòng bao dung. Buổi chiều, để tránh những xúc động do ảnh hưởng buổi tang lễ của những người chứng khiến tận mắt, tôi thử làm cuộc khảo sát nhỏ một số bạn đồng sở, những người không đi tham dự buổi lễ, cũng để tránh có thiên kiến, tất cả khoảng 20 người tôi chọn phỏng vấn không có người Việt. Câu hỏi là: Bạn có đồng ý với bản án treo cổ Nguỹên Tường Vân? Tại sao? Nếu không thì bản án nào thích hợp? Thật là ngạc nhiên với kết quả: không ai đồng ý. Tất cả đều cho bản án quá nặng, 3 người cho án chung thân, số còn lại từ 20 đến 25 năm. Một số người cho rằng, nếu phải thi hành bản án , nên chọn phương pháp chích thuốc, phương pháp treo cổ quá dã man trong thời đại này. Lý do:

- Chống án tử hình.

- Vân còn trẻ và biết hối lỗi.

- Chỉ là một con lừa chở hàng.

- Không phạm tội trực tiếp gây án mạng.

Với sự khảo sát nho nhỏ này, tôi thấy rõ một điều: dường như cái đất nước bao dung này đã tạo dựng hay biến đổi nên những con người hiền hoà như thế. Từ ông thủ tướng, hay những vi quyền cao chức trọng đến người dân lao động bình thường đều có những cảm xúc như nhau. Đất nước thanh bình đẻ ra những tấm lòng nhân hậu. Đừng nói với tôi rằng, theo sự khảo sát của truyền thông báo chí, trong những ngày qua, số ủng hộ và chống bản án nói trên gần như tương đương: khoảng 45% cho mỗi phe, một số không ý kiến. Trong xứ sở tự do như Úc đây, được trên 50% một chút đã là cao và đủ để gọi là “có chính nghĩa”.

Cuối cùng, về tang lễ của Vân, tôi đến không để cầu nguyện cho em. Em đã được người dân Úc tha thứ, Thượng Đế còn nhân từ độ lượng hơn nữa chắc chắn đã tha thứ và đưa vòng tay rộng mở đón em. Tôi đến để cầu nguyện cho chính tôi, để học những bài học đắt giá của em và của tất cả những người khác đang dạy: sự hối cải, lòng khoan dung và sự tha thứ.

Với Australia, tôi cảm tạ một đất nước bao dung và thấy mình thật hạnh phúc vì đã chọn nơi này làm quê hương thứ hai, dĩ nhiên đôi khi cũng khó thương.

Australia, 10/12/2005

No comments: