Chương
15
Cuộc sống đôi đường
“
|
Tôi không nghĩ có gì khác biệt cho anh, cho dù là một thợ đốt
lò cho đầu máy xe lửa hay đốt lò cho máy tàu thủy”.
Rất nhiều lần, anh nhớ tới
câu nói đó với cái cảm giác sợ hãi đến phát ốm, thêm vào cái mặc
cảm thất bại và xấu hổ. Trong mấy ngày đầu, anh không thể nhớ bất cứ gì. Chỉ có
thể cố chịu đựng với nỗi kinh hoàng, với tội lỗi tầy trời mà anh đã phạm, gánh
vác cuộc sống do chính anh tự kết án. Nhưng
sau đó, khi đã học hỏi cách đối phó và làm việc
trong cái khoang hầm tàu đáng sợ đó,
anh nhớ lại lời nói trên và trong phút chốc tự hỏi mình, không biết có phải ông
Heikki Rautenberg cố ý đưa anh vào làm ở
đây là tìm cơ hội để giết chết anh không,
bởi theo ý anh, không ai có thể tồn tại
với đời sống như thế này trong một khoảng
thời gian dài, đời sống khủng khiếp vô
nghĩa vật lộn với khói lửa làm da thịt héo
khô, với bụi bặm , mồ hôi và chung đụng với những con người thất học, không thua gì những
con súc vật.
Làm sao ngay chính anh cũng
nghĩ là
một người làm công việc đốt lò trên
tàu thủy cũng có một chỗ đứng vinh dự và được vị nể như thợ đốt lò đầu máy xe lửa? Trong hệ thống ngành hoả xa, người thợ đốt lò
là một cơ khí viên rành nghề, có học thức,
chỉ ở dưới thành phần lái xe được coi là giới “quý tộc
tinh anh” của ngành một bậc. Cần rất nhiều năm trời quan sát, học hỏi và
tích tụ kinh nghiệm để trở nên một thợ đốt lò cho đầu máy xe. Còn trong ngành hàng hải này , đây là một ác mộng. Người đốt lò trên tàu thủy thuộc về đám cặn bã của bến tàu, được phân biệt bởi mỗi một điều: có sức khoẻ
phi thường như đám dã thú để có
thể chịu đựng nổi những ca làm việc dài bốn tiếng đồng hồ trong
cái sức nóng hừng hực của than lửa ở ngay
dưới hầm giữa thân con tàu bằng
thép.
Ở cuối mỗi ca làm, khi trở về giường ngủ với thân thể như bùng cháy, người sũng ướt mồ hôi
và đầu óc như mê sảng, anh cố nhớ vì sao
mình lại đi làm chuyện điên rồ này.
Galina, những ký ức về cô đã xa vời, bị cô lập. Nó chẳng có liên quan gì tới cuộc
sống hiện tại của anh. Anh nhìn lại mình
với con người trẻ trung dịu dàng, được
chiều chuộng, hầu như lúc nào áo quần cũng bảnh bao, sạch sẽ ,và rồi anh tự hỏi
sao cái con người trẻ tươm tất bóng bẩy ấy biến thành một tên tù khổ sai như
anh lúc này?
Mỗi ca làm việc trong
khoang hầm gồm ba người: hai đốt lò và một người dọn dẹp , phòng máy kế cận có một viên kỹ sư và một thợ máy. Anh nhanh
chóng nhận ra mình có nhiều điểm tương đồng
với hai người này hơn là với đám bạn đồng sự. Anh có thể hiểu họ dễ dàng. Tuy họ
phát âm giọng Tô Cách Lan, nhưng họ không
có vẻ vai u thịt bắp và thất học. Nhưng
những bạn đồng sự đốt lò với anh, dù
chung một ca làm hay không, họ đều nói
thứ ngôn ngữ anh chưa hề nghe, vừa nặng
nề vừa
ậm ừ trong cổ họng và anh đoán, toàn là lời tục tĩu và tiếng chửi thề. Một
người trong bọn họ lại hoàn toàn khác biệt.
Anh ta không nói một lời và khi hết ca chỉ nằm đọc Thánh Kinh. Edwin đã
thử nói chuyện với anh ta một lần, nhưng đôi mắt xanh cuồng dại từ khuôn mặt xám đen đăm đăm nhìn
mà dường như không thấy anh. Anh ta như một kẻ vô hình.
Anh phải tập làm quen với tiếng ồn của máy. Vì sao tiếng động gây ra bởi lò lửa và trục kéo than tro cứ
gào thét ầm ầm vào tai cho tới khi đầu anh muốn vỡ ra? Trong
đó không có khoảng không, không có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Ở trên một toa đầu máy xe lửa vẫn có khoảng không, tất cả dành cho anh. Anh
có thể thấy cảnh vật, cây cối, nhà cửa cánh đồng chạy ngang, nhưng ở đây hoàn
toàn không có gì ngoại trừ ngọn lửa trong một cái hang thép nóng hực , toàn mồ hôi và đám người thô tục.
Hành trình của con tàu Mạc
Tư Khoa II, mỗi chuyến đi về từ Leith đến St Peterburg và trở lại kéo dài khoảng ba tuần lễ, và
trong chuyến cập bến đầu, anh khó lòng
nhận thức được quả thực mình đã đến thành phố St Peterburg. Anh đã không lên bờ.
Đã có vài vi phạm nhỏ nhặt với những giới chức điều hành hải cảng nên thủy thủ trên tàu bị phạt cấm lên bờ, nhưng thực tế mà nói, dù sao
anh cũng không thể nào lên bờ. Vẫn còn đang quá lẫn lộn, nhục nhã và chưng hửng về điều anh đã làm đến
nỗi không thể nào đối diện với những trở ngại phải vượt qua trong một thành phố
ngoại quốc xa lạ để gặp Galina.
Khi hành khách đã xuống
khỏi tàu và phu bến tàu bắt đầu chất hàng hoá lên, Edwin đi lên boong tàu đứng
hít thở làn không khí trong lành thổi qua từ Vịnh Phần Lan với sự biết ơn.
Chẳng có mấy thứ ở đây mà anh chưa
thấy ở Leith và Reval để mà nhìn ngắm. Cũng
những mái chòi, cần cẩu và kho chứa hàng.
Trời khá lạnh, lạnh hơn ở Anh Quốc vào đầu
tháng Năm với ánh mặt trời ban ngày chiếu lợt lạt và ánh đèn phản chiếu vào ban
đêm. Mặt nước, ngay cả tại khu vực bến đậu, đã có lổn nhổn những cục nước đá màu
xanh, và gió mạnh thổi vào làm nên những đợt sóng nhỏ vỗ vào mạn thương thuyền
và những con tàu đi phá băng.
Edwin uể oải đứng nhìn phu
bến tàu và các nhân viên hải quan lên xuống
cầu tàu. Những âm thanh lạ tai từ những
miệng lưỡi thô lỗ bay đến tai, và thình lình, có một từ ngữ gây cho anh sự chú ý. Nó đưa anh trở lại nhiều
năm trước, về cái mùa hè kỳ lạ và đau đớn
khi mà tương lai đã báo trước với những hứa hẹn về những kích thích bất ngờ không biết trước. Từ ngữ bỗng nhiên
mang lại hình ảnh của ông Barshinskey trở về trong trí của anh. Một ông Barshinskey
cao lớn, râu đen rậm rạp, và vì thế không giống
đám người anh đang thấy trên bến tàu trước mặt, cũng lực lưỡng nhưng hơi nhỏ con.
Với ký ức về ông Barshinskey chợt đến cũng là ký ức của sự mong ngóng không thể định nghĩa được trong
cái mùa hè đó, mong đợi những khoảng không gian bao la, những cuộc
phiên lưu, những chân trời mới. Và , tắm gội
qua những đợt sóng của sự mệt mỏi, kiệt sức , đây là lúc anh nhận ra vì
sao mình có mặt ở chỗ này, không hẳn chỉ để đi tìm kiếm Galina, mà cho cả sự bồn
chồn nóng nảy trong giấc mơ của đứa bé
trai ngày nào chưa bao giờ được thoả mãn.
Anh nhìn cái bến tàu ảm đạm
màu nâu xám, các nhân viên thuế quan trong bộ
đồng phục có viền, và một cảm giác
háo hức của những ngày tháng cũ râm
ran chạy qua người anh. HIện tại anh đang
ở đây, trong cái thành phố St Peterburg, hàng bao nhiêu dặm cách xa nhà, xa làng
, xa cả đời sống gò bó, nhỏ hẹp cũ của anh. Anh đã đạt được nó. Giá phải trả
bao nhiêu không thành vấn đề, anh đã thực
hiện được sự mong đợi đó, và đây mới chỉ là bắt đầu. Và nếu như anh đến được xa thế này, vậy thì anh có thể đi xa hơn, đạt được nhiều hơn nữa, với niềm an ủi là trong giấc mơ ấy, Galina là một phần quan trọng không thể thiếu vắng được.
Anh sẽ vượt qua cái hầm than để tồn tại. Dĩ nhiên
anh sẽ tồn tại. Anh đang còn trẻ trung khoẻ mạnh. Nếu anh bình tĩnh lại và ngưng
đắm mình trong sự tự thương hại mình, anh có thể đạt được bất cứ gì anh muốn. Đó
là một công việc cực khổ, một công việc gớm ghiếc, đúng thế, và anh tự buộc mình
vào sự cô đơn bởi vì anh là “kẻ lạ” so với
đám bạn đồng sự. Nhưng đó có là vấn đề không? Không phải tách rời khỏi bọn họ là tốt hơn nhiều sao? Tha hồ theo đuổi những mục đích riêng, tha hồ gặp gỡ
Galina khi anh muốn?
Trong trạng thái hy vọng dâng lên và thái độ quyết tâm đó, anh biết mình
sẽ làm bất cứ gì, đi theo bất cứ đường hướng nào cần thiết để tiếp tục tìm gặp Galina. Sẽ có một ngày, cô sẽ chán ông Heikki và những con người như ông
ta. Sẽ có ngày cô chán cái cuộc sống mà
cô đã đang sống từ những năm mười bốn tuổi.
Cô đã đang thay đổi rồi đó,
mặc dù chính cô không nhận ra. Anh nhớ tới lối đối xử của cô khi ở với anh, những
giọt nước mắt của cô khi nghĩ rằng anh đã bỏ đi, việc cô nằng nặc đòi anh bỏ hết mọi thứ trên đời để đi theo cô. Anh thấy một cảm giác thắng lợi khi nhớ lại những việc này, vì anh nhận ra rằng
anh đã trở nên cần thiết cho cô cũng như cô cần cho anh vậy. Trước đây trong đời
cô luôn luôn là một sự tiến lên, bất tài, vô trách nhiệm, nhẫn tâm bỏ lại đằng
sau những người đàn ông cô không còn lợi dụng được nữa. Nhưng bây giờ cô không thể nào rời bỏ anh.
Trong giây lát, với niềm lạc quan dâng tràn, anh nghĩ đến bước lạc hướng cuối cùng
của cô, cái lạc hướng về việc được viếng
thăm quê hương của ông bố, rồi nó sẽ phôi phai. Ông Heikki sẽ già
đi, còn anh, miễn là anh có thể kiếm đủ tiền để chăm sóc cho cô, anh có thể
thuyết phục cô trở lại Anh Quốc, trở lại
cuộc sống bình thường và vĩnh viễn bên anh.
Khi tàu còn đậu ở trong cảng,
nhiệm vụ của người đốt lò giảm thiểu đáng
kể, cho tới khi phải bắt đầu chuẩn bị hơi
nước cho việc khởi hành. Tươi mát, lấy lại sức sống, anh leo lên giường nằm, và
bắt đầu nghiên cứu bản đồ thành phố St Peterburg đã mua ở Luân Đôn. Thật không
dễ dàng gì. Thành phố quá lớn. Còn anh không biết con tàu mình đang đậu ở bến nào. Rõ ràng có
hai khu bến đậu cho các tàu bè lớn: một
là Kommercheski, cái kia là Gutuyevski. Nhưng chẳng có một dấu hiệu nào anh có
thể thấy, cho biết tàu đang ở bến nào.
Khi đến phiên trực ở dưới
khoang hầm, anh thò đầu qua phòng máy hỏi người thợ máy:
- Mình đang ở đâu? Cảng này tên
gì ?
Người thợ máy trừng trừng ngó
anh:
- Ông bạn nói gì thế. Đây là
St Peterburg!
- Nhưng bến nào đây. Có tới
hai bến lận.
Người thợ máy vẫy cái nùi
giẻ thấm dầu về phía anh.
- Có chuyện quái quỉ gì thế?
Bến nào thì có gì khác ở cái đất “cà chớn”
này.
Đằng sau tên thợ máy, một bóng
người khác nghiêng đầu qua:
- Chúng ta đang ở bến
Kommercheski.
- Cám ơn, thưa ông!
- Chúng ta luôn luôn cập bến
ở Gutuevskaya. Nhưng vì lý do nào đó, chúng ta được yêu cầu đến đây trong vài
tuần lễ tới. - Viên kỹ sư phó nhìn anh với
vẻ tò mò trong giây lát rồi tiếp. - Điều
đó có gì khác biệt không?
- Tôi chỉ muốn coi nó ở đâu trên bản đồ, thưa xếp!
- Lần này không được phép lên
bờ đâu.
- Tôi biết mà.
Người kỹ sư nhìn anh một lúc
lâu hơn rồi ông ta biến.
Trở về giường ngủ, anh nghiên
cứu lại bản đồ. Lúc này, anh đang ở ngay phía bên kia của thành phố so với chỗ
Galina ở. Anh phải đi hết chiều dài của hòn đảo từ chỗ tàu đang cập bến, băng qua con sông, rồi đi xa hơn nữa về phía dường
như là đất liền. Anh bắt đầu coi cuốn sách
chỉ dẫn. Nó hầu như vô dụng, chỉ nhằm giúp
cho những khách du lịch giàu có và thông thạo ngôn ngữ, nhưng ít nhất, nó cũng
chỉ ra được những đường xe điện. Anh chịu
khó khổ công theo dõi hết đường này sang đường khác trên bản đồ. Chữ in trên đó lại nhỏ bé và nhiều danh xưng trông giống như nhau cho đến khi
coi thật kỹ lại mới thấy có một vài nét chữ nhỏ khác biệt. Đến cuối giờ nghỉ việc,
anh cũng khám phá được con đường xe điện
số 5, miễn là anh tìm ra được nó khởi sự từ đâu, sẽ đưa anh tới một nơi anh có thể từ đó đi bộ đến căn hộ của ông Heikki.
Trong hành trình trở về Anh
Quốc, anh có rất ít thời giờ cho việc nghiên cứu sách chỉ dẫn.
Vẫn còn quá cạn lực khi xuống ca để coi kỹ cái anh đã tìm ra. Mặc dù cố
chống chỏi cơn mệt nhọc, nhưng chưa gì
anh đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Tuy nhiên khi đã về đến
Leith, anh lấy ngay một căn phòng nhỏ gần
trạm xe lửa và nhanh chóng ổn định để tập trung vào việc nghiên cứu sách
chỉ dẫn trong thời kỳ nghỉ phép ngắn hạn.
Có thư từ ở nhà gửi đến
cho anh được giữ ở văn phòng đội thương thuyền. Khi không đọc sách hoặc cố
học hỏi các mẫu tự Nga kỳ lạ, anh viết thư về nhà kể về những kỳ vọng tích cực của
anh và để nhà an lòng. Vào ngày
cuối cùng trên bờ, anh đáp xe lửa về Edingburg mua một cẩm nang dạy tiếng Nga,
rồi đi lang thang khắp thành phố trong ánh nắng tháng Năm với chủ ý rằng tự làm quen với một thành phố lạ ở đây để rút kinh nghiệm cho thành phố tới.
Quay trở về con tàu Mạc Tư
KHoa II, cái khoang hầm tàu lại đập vào
mắt anh lần nữa, nhưng anh quyết không để cho cái trạng thái lạc quan của mình
bốc hơi, anh đã phải vật lộn với sức nóng, bụi than và sự bất mãn. Anh nhất định không nghĩ đến những cái đã bỏ đi, mà
chỉ nghĩ đến những gì anh sẽ làm. Không được than vãn rên rỉ, ngay cả với chính mình.
Lần này, khi cập bến đã có
một cảm giác thân mật thoải mái hơn. Với sự phấn khởi trong lòng, anh chờ cho đến khi được phép cho lên bờ, rồi đến nối
đuôi xếp hàng trước cửa văn phòng chủ sự chính
xin lãnh lương trước bằng tiền Rúp
và các đồng Cô Pách. Từ trong sách chỉ dẫn, anh biết trị giá của đồng Rúp và đã
xin lãnh một số tiền lớn. Anh vẫn nhớ những tiêu xài xa
xỉ của Galina.
Viên thuyền trưởng
Patterson ngưng lại, tay ông đặt trên hộp
đựng tiền, thoáng nhìn Edwin và hỏi lại:
- Bẩy
Rúp cơ à?
- Dạ đúng, thưa thuyền trưởng.
- Anh đã lên bờ bao giờ chưa?
- Chưa! Nhưng tôi có một người
bạn sống ở St Peterburg và tôi không biết chắc mình sẽ cần bao nhiêu tiền trong
chuyến đi chơi này.
Viên thuyền trưởng, cũng giống
như viên kỹ sư trước đó, tò mò nhìn anh, rồi ông ta đếm tiền trao cho anh cả bằng đồng Rúp và
đồng Cô Pách.
- Cẩn trọng với giấy tờ của
anh và với quan chức có thẩm quyền. – Ông
hững hờ nói. - Mọi việc ở đây rất khác. Đôi
khi chỉ những lỗi vi phạm nhỏ nhặt cũng thành tội hình sự.
- Tôi sẽ cẩn thận, thưa ngài!
Lắng
nghe những người đang đứng xếp hàng, bởi
anh đã quen với âm giọng nên bắt đầu hiểu, anh nhận ra họ đang
xếp đặt cho cuộc đi bờ chơi thật vui. Họ đã không mời anh nhập chung bọn,
và một lần nữa anh cảm ơn cho sự bị cô lập của anh dưới hầm tàu. Lúc này, anh
chưa phải là một người trong bọn họ, mặc dù theo thời gian điều đó chắc chắn sẽ
thay đổi. Tới lúc đó, anh sẽ phải nghĩ cách nói
lời xin lỗi từ chối sao cho khỏi phật lòng
họ.
Khi bước qua khỏi cổng bến tàu và được đóng dấu nhập
cảnh , một luồng kích thích lại nổi lên thật mạnh mẽ và vui sướng trong lòng
anh. Anh đã làm được rồi. Giờ này, anh đang đứng trên mảnh đất
có tên nước Nga, và một tên nữa không xa lắm, đó là Galina.
Mất cả tiếng đồng hồ mới tìm
ra được con đường Galina đang sinh sống, anh đi bộ dọc suốt con đường, bởi không tìm ra được cái gì trông giống như một trạm xe điện, và quá mất kiên
nhẫn để đi lục soát. Bên ngoài
khu vực bến tàu là một đại lộ trải dài trưóc mắt, trống vắng một cách lạ lùng,
lại trầy trụa thảm hại và bẩn thỉu. Vài
chiếc xe do ngựa hay bò kéo kêu lạo xạo
trên con đường đá sỏi, chỉ thấy có một
chiếc xe hơi lướt qua mặt anh. Những toà
nhà cao lớn, lồi lõm như hang động cả
hai bên đường , loang lổ với lớp xi măng
tô màu xanh lợt ngả màu cùng những
hàng gạch nứt nẻ. St Peterburg dường như chẳng có gì lạ đáng để ý.
Anh quẹo phải, cẩn thận đi
theo bản đồ, và rồi đến một bờ sông thì
ngừng lại , nụ cười nở trên môi. Tất cả sự lạc quan bỗng ập đến và chứng tỏ
đúng. Sự khích động và niềm tự
tin dâng cao trong tim. Đây đúng là chỗ
của Galina.
Bên kia dòng sông nước xanh
lấp lánh. Gió thổi làm mặt nước gợn sóng lăn tăn, những hàng cột, những xây cất hình trôn ốc, hình cánh cung mọc lên tráng lệ dưới vòm trời
xanh biếc. Đây là St Peterburg, một thành phố anh đã nghe về nó năm lên mười ba tuổi, từ khi gia đình
Barshingskeys đi vào đời sống của anh. Vừa ngốc nghếch, vừa vui sướng mỉm cười,
anh chăm chú nhìn vào những dinh thự vĩ đại, những chỏm cầu mạ vàng vươn cao lên trên bầu trời và anh biết rằng, bởi vì Galina
và gia đình cô, bởi vì cái thành phố này, cuộc sống của anh sẽ không bao giờ giống như xưa nữa. Anh nghĩ ngược về ngôi làng,
về đời sống bị giới hạn nhỏ nhoi mà anh đã sống ở đó, đời sống mà bố mẹ anh vẫn
đang tiếp tục sống vì họ không được biết gì về cái thế giới lớn hơn, quyền lực hơn, lộng lẫy hơn bên ngoài. Và anh biết thêm một điều
là , cho dù bất cứ chuyện gì xảy ra trong tương lai, có một điều anh sẽ không
bao giờ biết nữa, đó là sự mãn nguyện.
Anh băng qua cầu, cây cầu Nicholas, tên trên bản đồ và lao vào một mê cung những con đường, kinh đào, dinh
thự dẫn tới con đường Borovaya. Tới gần hơn, St Peterburg vẫn dơ bẩn tồi tàn, vắng
vẻ một cách kỳ lạ và toàn những bảng hiệu chữ mà anh chỉ có thể đọc bằng ám hiệu. Những người bán dạo lưng dựa
vào những toà nhà cao tầng với những cái
giỏ trước mặt chứa đầy các thứ nấm đỏ và
nâu. Có lúc anh ngửi thấy mùi cà phê thơm ngát bay ra từ một quán cà phê nằm thấp
hơn mặt lề đường một chút. Không khí trong lành và mát mẻ, và luôn luôn có một
làn gió hiu hiu mà đôi khi trở thành luồng gió mạnh khi anh đến một góc đường, quẹo
qua một đại lộ khác. Những tháng sau đó, anh khám phá ra rằng thành phố St
Peterburg không lúc nào không có một làn
gió nhẹ từ dưới sông thổi lên ngang qua những hải đảo.
Khi tới
được con đường Borovaya, tim anh đập mạnh. Từ hôm gặp gỡ lần chót, đã gần hai
tháng trôi qua, và anh bỗng lo sợ không
biết có gì thay đổi? Anh không tìm thấy
căn hộ cô đang ở và bắt đầu hoảng hốt. Con đường thật dài, và các dinh thự cao
lớn dường như chẳng có số . Anh lấy bao thư có ghi địa chỉ do ông Heikki
viết trên đó hỏi một hai người
qua đường nhưng họ không tỏ vẻ thân thiện. Người ta chỉ xua tay và hối hả bước đi. Phải
một lúc lâu sau mới có một người mặc bộ đồ đen cầm lấy đọc rồi chỉ qua phía bên kia đường. Cuối cùng anh cũng tìm ra căn hộ, số nhà ở tít trên cao ở trong một
cánh cổng tối hù. Có một khoảnh sân sau dẫn đến một dãy cầu thang đi lên, và trước
khi anh có thì giờ nghĩ có nên đi vào sân hay leo lên cầu thang đó, anh đã nghe tiếng chân cô chạy từ cầu
thang xuống và tiếng cô gọi anh ở trên.
- Edwin, Ồ! Anh Edwin. Em cứ
nghĩ là anh sẽ không bao giờ đến.
Và rồi cô đã ở trong vòng
tay anh Cái trò ảo thuật thân quen của cô đối với anh lại trở nên hữu hiệu, làm
tan biến mọi lương tri, mọi lý lẽ. Mọi thứ anh muốn đều có ở đây. Những cái khác
không còn là vấn đề. Một ngày một đêm với cô, một lần trong tháng đã quá đủ đền
bù cho mọi thứ mất mát khác.
- Edwin! Edwin yêu quí của
em. - Cô hôn anh ngay trước mắt một lão
già mặc chiếc áo choàng viền lông thú ngắn
vừa xuất hiện từ một quán rượu nhỏ gần cổng. Cô hôn anh như là cô nhớ anh thật
nhiều, cũng như anh nhớ cô. Anh cũng để
cho cảm giác của mình cuốn hút theo khi vòng tay của cô kéo môi anh xuống môi cô, và bỗng cảm thấy một tiếng khóc không thành tiếng phát ra từ trong lồng ngực anh với sự thân mật của cô, mùi hương của cô tràn ngập
và thấm vào từng bộ phận trong cơ thể
anh.
- Sao anh không đến sớm hơn?
Lần trước đó, tàu anh lẽ ra phải ở đây
tháng rồi. Heikki bỏ đi và em chờ anh.
Sao anh không đến? Em không thể tin là anh đã không đến!
Anh cố giải thích nhưng không
thể nghĩ ra chuyện gì ngoài việc cô đang
nằm trong vòng tay anh. Cuối cùng, câu nói chỉ là:
- Anh đến đây rồi, Galina!
Anh đã đến!
- Ô! Đúng thế! Anh đã đến rồi.
Thật tuyệt vời. Bây giờ anh đã đến rồi, mọi sự đều tuyệt vời anh Edwin ạ!
Cười cười nói nói, cô kéo
anh lên lầu.
- Em biết tàu anh lại đến nữa.
Heikki đã đi rồi, anh thấy đó, như ông ta đã nói, và em bắt đầu chờ đợi và chờ
đợi, ngồi nhìn qua cửa sổ hy vọng thấy
anh.
Họ đi đến một khoảng mờ tối
ở đó có một cánh cửa khổng lồ hơi hé mở.
- Mình tới rồi. Anh Edwin, để
em nhìn anh một chút. Và anh cũng phải nhìn em. Anh nghĩ
em có thay đổi không? Có thấy em xinh đẹp hơn không? Coi nè! Em có áo
quần mới, căn hộ tuyệt trần phải không?
Nhiều thích thú hơn, giàu có hơn, tuyệt
vời hơn và hoàn toàn Nga.
Cô nhảy nhót quanh nhà ,
chạm vào những bức tranh, những bình chưng, bàn ghế dường như để
tự trấn an. Rồi như một cánh bướm, cô nhảy phóc vào lòng anh:
- Ô! Edwin! Em yêu anh, yêu
anh thật nhiều!
Anh không thể làm gì ngoài
việc nhắm mắt lại tận hưởng niềm hạnh phúc. Anh đã mắc bẫy. Cái sinh vật cái rất mỏng manh dễ vỡ nhưng lại khó nắm bắt này đã
bẫy anh từ nay đến cuối đời. Bỗng nhiên
cô kéo anh lại ghế sofa. Họ ngồi với nhau lắng nghe tiếng âm thanh ngoài đường
vọng vào qua cửa sổ. Cô nắm lấy bàn tay
anh và
nhẹ nhàng đưa lên áp vào má cô. Anh ngỡ ngàng thấy những giọt lệ trên mắt cô.
- Hứa với em, anh sẽ không rời
xa em nữa, anh Edwin!
Cô lặng lẽ nói, và khi anh
bắt đầu có ý phiền trách, cô vội vã cắt lời.
- Ồ! Em không có ý bảo anh không trở về con tàu của anh nữa. Đó không
phải ý của em. Đôi lúc anh cũng phải ra đi,
em biết điều đó. – Cô ngừng lại cười với
vẻ hơi lo sợ. - Hãy hứa với em là anh sẽ
không bao giờ ngừng đến thăm em, sẽ không bao giờ từ bỏ em. Anh là người
duy nhất em có, anh hiểu chứ? Anh là người duy nhất …biết rõ về em.
Với sự dịu dàng phát xuất từ
trong tim, anh vuốt nhẹ mái tóc phủ trên mặt cô ra phía sau.
- Anh sẽ không tin những gì
người ta có thể sẽ nói về em phải không
anh? Anh sẽ luôn luôn yêu em và ở lại với em phải không?
- Đúng thế !
Và một lần nữa thái độ cô thay đổi mau lẹ, nụ cười nở trên môi, vòng tay cô mở rộng.
- Anh có thể ở đây bao lâu
anh Edwin?
- Anh phải trở về tàu vào bảy giờ sáng mai.
Cô tỏ ra một chút tức tối, rồi
nghiêng người về phía anh, hối hả đưa môi tìm môi anh, nhẹ nhàng mơn trớn
anh cho đến cuối cùng, như thường lệ, cái
đòi hỏi làm chủ cô choáng ngập con người
anh.
- Đủ rồi em! – Anh nói giọng
khàn đặc, đẩy tay cô ra phía sau và gắn chặt miệng anh vào miệng cô… cho đến
khi cô thở một hơi nhẹ và thật thoải mái
bên anh.
Phải thừa nhận cô xinh đẹp hơn,
nhiều chất Nga trong người hơn. Mái tóc
cô búi lên thành một vương miện lớn trên
đầu và bên ngoài cái cổ cao của chiếc áo cô mặc là một chuỗi trân châu dài tới ngực. Một món quà mới của ông Heikki,
anh nghĩ, nhưng lúc này, anh không thấy
đắng cay. Bởi anh biết, dù sao, đối với Heikki, cô không có thái độ vui sướng, tin tưởng, không an tâm vì sợ mất như với anh.
Cô đặt bữa ăn trưa mang tới nhà
trong ngày đầu hôm đó. Có một người hầu, một người đàn bà hàng ngày tới để dọn
dẹp nhà cửa và đi chợ. Anh thấy cô chạy bổ ra ngoài phòng
khách, có tiếng khúc khích vui vẻ rồi tiếng
cười sảng khoái và tiếng đồng tiền kêu leng keng. Khi anh theo cô bước ra, cô
xoay người anh đẩy trở lại phòng ngủ.
- Không, không. – Cô la lên,
khoé mắt híp lại vì tiếng cười. - Anh phải đi chỗ khác, chờ em có một ngạc nhiên cho anh.
Cô đóng cửa phòng ngủ lại,
còn anh tự mỉm cười, lắng nghe tiếng đồ đạc bàn ghế xê dịch và giọng nói cô đưa ra những mệnh lệnh
cứ liên tục trái ngược với nhau.
Phòng ngủ thật lộng lẫy, giường ghế lớn lao, đồ mạ sáng choang với cái đầu giường chạm trổ bằng vàng, màn cửa và chăn gối trên
giường toàn một màu huyết dụ. Tất cả đều
sang trọng, lạ kỳ. Nó làm cho anh nghĩ tới
những buổi tối ba người đã từng
vui vẻ với nhau.
- Nào! – Cô cười lớn mở tung
cánh cửa. - Giờ anh có thể đi ra, chúng
ta cùng ăn trưa.
Một cái bàn phủ khăn trắng,
một liễn súp bằng bạc, ly tách, một bình
pha lê giữa bàn cắm một cành hoa táo, làm
sao cô có thể tìm ra một nhánh táo trổ bông giữa thành phố St Peterburg này? Một
chai sâm banh ngâm trong chậu nước đá bằng bạc.
- Bà Yelena đã đi rồi. Giờ chúng
ta có thể bắt đầu bữa tiệc. Nhưng trước
tiên, có một món quà nho nhỏ cho anh để mừng anh đến thành phố này.
Mắt cô sáng rực, đen láy,
tràn đầy vui sướng và hạnh phúc. Thế là anh quên hết mọi thứ: hầm than, mặc cảm
tội lỗi, hầu như mọi thứ. Cô thật quá quyến rũ.
- Em có gì đó?
- Mở ra, mở ra đi! Một món
quà đặc biệt cho anh. Anh phải hứa với em là chỉ có hai chúng ta dùng nó mà thôi.
Đó là một cái hộp nhỏ bằng
da có hình trụ. Anh mở nó ra, bên trong
là hai cái ly bằng bạc đặt chồng lên nhau
thật khít trông như chỉ là một cái.
- Nhưng Galina này, anh không
thể…
Thật nhanh, cô đưa mấy ngón
tay lên bịt miệng anh
- Ô , ố, ồ! Cô lắc đầu. - Đừng
ra vẻ “nhạy cảm” quá anh Edwin. Em mua món quà này bằng tiền của riêng em. Em
biết anh sẽ nói gì: thể diện, nếu em dùng tiền của ông Heikki. Vì thế, em đã
cẩn thận dùng tiền của riêng em mang theo từ bên Anh về. Anh phải nói: “ Cám ơn
em, người tình đáng yêu nhất của anh”. Rồi anh phải mở chai sâm banh ra và chúng ta sẽ uống mừng cho tình yêu chúng mình.
- Cám ơn em, người yêu dấu của
anh.
Anh từ phía bên kia bàn bước
qua nắm lấy hai cổ tay nhỏ bé của cô. Rồi anh ào tới ôm chặt lưng eo cô nhấc bổng lên cao:
- Galina quí giá của
anh! Anh chưa bao giờ từng gặp một người
con gái như em và sẽ không bao giờ gặp nữa.
- Ồ Edwin! Anh thật quá đáng yêu.
Cuối cùng thì anh đã biết nói những lời âu
yếm ngọt ngào với em.
Với đôi tay bám chặt vai
anh, cô nhìn anh đắm đuối. Hai người thật
gần nhau, gần nhau trong mọi ý nghĩa đến
nỗi anh vừa nghe được tiếng tim cô đập
thổn thức, vừa cảm nhận được ý tưởng của cô. Anh thấy mắt cô ngấn lệ, nhưng
anh biết cô khóc trong hạnh phúc, cũng
như anh đang hạnh phúc. Họ đứng yên lặng bên nhau, biết rằng mối ràng buộc tình yêu của họ hầu như thật đau đớn, thật quá mức chịu đựng.
- Sâm banh đâu rồi? – Cô bỗng lên tiếng.
Khi hai người nâng ly rượu
bạc cùng uống với nhau, từ bên kia bàn,
khuôn mặt cô đóng khung bên dưới nhánh hoa táo cong cong, trông hệt như một cô dâu.
Buổi tối họ đi ra ngoài. Cô
thay một bộ cánh khác. Chiếc áo dài đỏ bên
trong với áo khoác nhỏ bên ngoài màu xám
đen. Hai người chân bước bên nhau. Cô nói
cô muốn giới thiệu với anh “thành phố của cô“.
Vì vậy cô đưa anh tới những Astoria, khu vườn mùa hè, những kinh đào, những
biệt thự của ông hoàng này bà hoàng nọ… Có một lần, vừa khi họ sắp sửa đi vào Nevsky, một tốp những tay sĩ quan trẻ
bước tránh qua một bên và nhẹ nghiêng đầu chào cô. Edwin nghe, trong số một tràng
câu nói nhanh như gió có một từ ngữ không thể lầm lẫn được: Barshinskaya.
Galina đỏ bừng mặt, mỉm cười và hơi nghiêng đầu cúi chào lại. Anh nhất định dứt khoát với mọi ý nghĩ trong đầu có thể làm
hỏng cái ngày tuyệt vời này.
- Mình cần đi ăn tối, - Cô nói,
- ở một trong những nhà hàng ấm cúng thân
mật. Sau đó, mình sẽ ra cầu tàu để ngắm nhìn
ánh đèn chiếu trên mặt nước.
Cuối cùng, họ tìm thấy một
nơi gần nhà ga Nicholas, một nhà hàng nhỏ, hơi tối và có vẻ ảm đạm nhưng không
làm họ buồn bã. Để mặc cô gọi thức ăn. Cuối
bữa, Edwin cũng thấy phải dùng hết số tiền
anh có để trả cho bữa ăn. Anh thừa hiểu rằng, lần tới anh sẽ phải xin lãnh trước số tiền lớn hơn nữa. Sau bữa ăn
tối, bỗng nhiên thật quá xa xôi để đi tới
cầu tàu ngắm nhìn ánh đèn chiếu trên mặt nước, họ vội vã trở về chỗ ở. Giờ chỉ
còn mấy tiếng đồng hồ được ở bên nhau.
Suốt đêm, ôm chặt nhau,
hai người thì thầm về chuyện xa nhau, chắc
không lâu lắm, chỉ hơn ba tuần lễ thôi trước khi anh lại ở bên cô. Tới lúc anh
ra đi, cô bám chặt lấy anh làm anh chợt nhớ lại những lần anh rời cô
hằng đêm ở tại nơi cô trú ngụ vùng
Bayswater, những lần anh ra đi mà cô chẳng
hề thức giấc, chẳng hề biết anh đã đi và
cũng chẳng cần biết.
Anh từ giã cô lúc năm giờ sáng,
bởi cho dù giờ anh đã biết trạm đón xe ở đâu nhưng anh không còn tiền. Không thành
vấn đề. Trong một trạng thái phấn khởi một
cách tò mò, anh muốn biết một khía cạnh
khác của thành phố St Peterburg. Và cái
mà anh nhận ra được là: một khối lượng công nhân đầu đội mũ và mặc những chiếc áo khoác tồi tàn đang vội vã trên đường đi đến công xưởng nhà máy trong cái ánh sáng trắng nhợt của buổi bình minh cực bắc.
Anh trở về tàu vừa kịp đúng giờ.
Khi tàu cập bến , số người
lên ca dưới hầm tàu giảm tối thiểu, luôn luôn không quá hai người, một thợ chính
và một người đốt lò, vừa đủ giữ lửa cho nồi súp de và phòng máy sẵn sàng. Leith
là hải cảng nơi ai cũng muốn lên bờ đi
chơi, thăm viếng gia đình hay đến những nơi chốn thường hay lui tới. Trên hành
trình quay trở về đó, Edwin tình nguyện làm công việc bảo trì mỗi khi tàu về tới
Leith. Lúc này anh không có ý định tiêu phí thì giờ trên bờ biển Tô Cách Lan,
phí tiền thuê mướn nhà trọ khi anh cần dành
từng đồng xu cho Galina ở St
Peterburg. Anh hài lòng ở lại trên tàu với cuốn sách học tiếng Nga và
cuốn sách chỉ dẫn, và dĩ nhiên , để mơ đến Galina.
Trong cái im lìm của những
con tàu đang cập bến, một tình bạn cao quí bắt đầu nẩy nở giữa anh và người kỹ
sư. Một nhận thức hiểu được nhau giữa hai người đã giúp Edwin giảm bớt đi cái cảm
giác bị cô lập. Khi viên kỹ sư thay dầu nhớt
cho máy và làm công việc bảo trì sửa chữa thường ngày của ông, mớ kiến thức hơn
hẳn một người thợ đốt lò trung bình một cách đáng kể của Edwin, càng trở nên rõ rệt , và viên kỹ sư đã tò mò hỏi
làm sao anh có thể có sự hiểu biết về loại
máy chạy bằng hơi nước thật chi tiết và
tường tận như vậy?
- Tôi từng là người của sở
hoả xa, thưa xếp, trước khi tôi vào làm cho Thomson.
Viên kỹ sư giật mình:
- Ngươì của sở hoả xa? Ý anh
muốn nói là một lái xe… một người lái đầu
máy xe lửa?
- Tôi chưa tới cấp đó, thưa xếp.
Tôi là người đốt lò ở tại nhà ga Luân Đôn.
- Tôi hiểu. – Ông ta bỗng ngưng
hỏi tiếp làm Edwin thấy thoát nợ.
Anh không hối tiếc điều anh đã làm, nhưng phải giải thích sự giáng cấp, sự mất địa vị và tay nghề là cả một sự bối rối. Không ai có thể hiểu được.
Khi tất cả những người khác
đã trở lại tàu, họ bắt đầu mở máy hơi nước
và khi sức nóng, tiếng ồn và công
việc lao lực bắt đầu trở lại. anh thấy
vui sướng. Anh không còn nhìn nó với đôi mắt kinh khiếp, bởi vì tất cả những hoạt
động này có nghĩa trong mười hôm nữa,
anh sẽ gặp lại Galina. Anh cảm thấy bây
giờ anh đã là một kẻ du hành có kinh
nghiệm, có thể tìm đường đi cho minh trên
các tuyến xe điện và lại còn đọc được một số chữ nữa.
Khi trở lại St Peterburg lần
thứ hai, anh đã có thể chú ý đến những thứ anh đã không để ý tới lần trước: Đồng
phục. Dường như tất cả mọi người ai cũng mặc đồng phục. Ngay cả những bà già
trong những chiếc áo khoác đậm màu
và khăn đội đầu màu đen cũng ăn mặc cùng một kiểu. Cảnh tượng thay đổi nhìn qua
khung cửa sổ dơ bẩn của chiếc xe điện. Một phần thành phố trông xấu xí với những dinh thự
to lớn màu xám xịt nằm dọc hai bên những con đường tồi tàn. Nhưng rồi lại có
thấp thoáng một con kinh đào chạy
song song những hàng cây với những
hàng rào lan can bằng sắt uốn
cong mỹ thuật hay những biệt thự có những
hàng cột rào bao quanh với những chiếc xe ngựa kéo đi qua cánh cổng hình cung vào một mảnh sân trước..
Lần thứ hai gặp nhau, họ không
bước ra khỏi nhà cho đến
mười giờ đêm. Dưới ánh nắng, họ nắm tay nhau đi bộ thẳng đến cầu tàu
English. Trời chưa tối nhưng ánh sáng đang
từ từ thay đổi thành một màu vàng rực, mờ
ảo như một cảnh thần tiên. Những lớp sương bụi nhỏ trôi lững lờ trên mặt sông Neva, thỉnh thoảng bay tấp vào bờ đá trên
bến. Cả hai người đều im lặng với cảm giác
vì họ đang yêu nhau tha thiết nên thành phố đã đổi thay thành giấc mơ diệu vợi cho
những người yêu nhau này. Sau một hồi, họ ngồi trên những bậc cấp ngắm nhìn màu sắc
thay đổi khi mặt trời nhô lên phía sau lưng. Khi họ trở lại chỗ ở, đã đến giờ anh phải rời cô, và họ bám
chặt lấy nhau thì thầm lời hứa hẹn lần tới…
Anh trở nên hai con người.
Một người đốt lò trầm mặc, cần cù ngăn nắp
và có trí óc luôn luôn làm việc chăm chỉ , tiết kiệm tiền bạc và chịu khó học Nga ngữ. Cái con người Edwin đó, một
Edwin sống qua những
ngày tháng hết sức mình, là một
anh chàng trầm tĩnh, rất biết điều đến nỗi chỉ sau một thời gian ngắn, các bạn cùng
tàu đều tỏ ra thông cảm. Khi ở cảng Leith, anh chàng lúc nào cũng ở lại trên tàu
dọn dẹp vệ sinh nơi làm việc. Anh ta đôi
khi có trao đổi đối thoại không thân mật lắm và có giới hạn với người thợ máy và người kỹ sư phụ tá. Họ có thể nói
về những việc liên quan đến máy tàu vì sao có khói đen hay về
cái nồi súp de bị nứt, nhưng không bao giờ
anh nói về những gì anh làm ở St Peterburg với những món tiền mượn trước
khổng lồ và những cuộc phiên lưu viễn
chinh đơn độc của anh.
Một Edwin khác, điềm tĩnh ,
phải chăng, chỉ đợi chờ đến một ngày và
một đêm anh được sống lại trong thế giới
mơ ước của anh.
Đến khoảng đầu tháng Tám,
anh đã từ giã người yêu đến lần thứ tư.
Bầu không khí của thành phố đã thấm vào đến cả tư tưởng trí óc
anh. Có những đám đông người đứng bên ngoài
nhà ga Nicholas và đường phố đầy những người trẻ, không chỉ là những viên chức
sĩ quan thường lệ với đủ loại các đồng phục
muôn màu, mà còn cả đám trẻ bình
thường với những chiếc mũ đội che kín đầu và những chiếc áo khoác đậm màu tơi tả. Hình ảnh của Nga Hoàng và các
biểu ngữ tôn giáo có mặt khắp nơi, trên những cửa tiệm và các quán cà phê, và một số được những nhóm người cầm theo trên những cán dài.
- Có chuyện động viên lính.
- Galina
giải thích một cách hững hờ. – và chiến tranh nữa. Nước Đức dường như sắp sửa tuyên chiến với chúng ta. Nhưng Heikki và một
số sĩ quan tụi em quen biết nói không sao cả . Chuyện sẽ qua đi trong ít ngày nữa
thôi.
- Em có chắc không? – Edwin
hỏi với một cảm giác nhứt thời hơi bất an.
- Ồ! Chắc mà! Trước đây đã từng
như vậy, khoảng hai năm trước, hoặc cũng
gần giống như vậy. Heikki bảo em.
- Nếu sắp có chuyện rắc rối, bộ em không tính hỏi Heikki về chuyện trở về nhà sao?
Cô mơ màng nhìn ra ngoài cửa
sổ. Ánh nắng chui qua tấm màn ren trắng lọt vào những tia sáng vẩn bụi trên không .
- Nhà? – Cô nói với vẻ xa vời. - Ở đâu là nhà?
Em nghĩ em yêu thích chốn này.
Đôi mắt cô nhỏ lại. Lúc này
cô thật xa cách anh, bỗng nhiên trở thành một người Nga điển hình, kỳ lạ, không còn là một con người mỉm cười sung sướng trong tay anh, tôn thờ bám lấy anh
với nỗi đam mê của riêng cô. Rồi cô quay đầu lại cười:
- Em yêu chốn này khi có anh ở
đây.
Ngày càng trở nên khó nói lời
từ giã hơn. Cuộc sống chia đôi của anh, những thời khắc ngất ngây ngắn ngủi với cô làm cho chuyện
tình của họ càng tăng thêm cường độ, thêm
mãnh liệt và thêm đau khổ. Anh thấy mình
muốn nói với cô về chuyện ông Heikki. Liệu cô đã chán ngấy cái ông già nhỏ con phì lũ và buồn bã, con người chỉ có thể cho cô một vài
thứ cô muốn chưa? Anh chú ý thấy (làm sao không chú ý cho được?) mỗi lần anh đến
với cô lại thấy cô có nhiều quà, nhiều
quần áo và nữ trang hơn. Edwin đoán rằng
có lẽ, cũng giống như anh, ông ta đang cố
gắng để chiếm lấy cô với những gì
bàn tay ông có thể cho. Đã nhiều lần anh đau đớn mơ đến sự giàu sang.
Làm sao để có được sự giàu có? Chỉ cần anh
có nhiều tiền, anh có thể giữ được
cô. Ít ra anh nghĩ là sẽ giữ được.
Còn tàu đã rời St Peterburg
được vài giờ, anh xuống hầm tàu xúc
than, vừa tháo mồ hôi hột vừa mơ mộng. Anh bỗng lờ mờ nhận thức rằng dường như
có gì lạ lùng ở trong phòng máy. Viên kỹ
sư trưởng đi xuống, và rồi người kỹ sư phó
và anh thợ máy thì thầm với nhau vẻ lo lắng. Tin tức loan
truyền ra khắp nơi trên tàu: con tàu phải
quay lại St Peterburg.
Trái tim anh đập thình thịch
với sự khích động. Trở lại với Galina. Nhưng nếu có gì trở ngại với máy tàu,sẽ
không được phép lên bờ. Nhưng trở lại có
nghĩa là ở gần cô, có cơ hội để gặp cô dù chỉ một giờ.
Khi tàu cập bến, một bầu không
khí lạ lùng bao lấy suốt con tàu. Anh vừa
xuống ca làm việc, đang ngồi ăn trong phòng
tạm nghỉ thì người thợ máy xuất hiện trông bần thần choáng váng.
- Chúng ta phải đi “nên” tập
họp trên boong tàu. Thuyền trưởng cần “phổ bín” tin xấu. “ Chín tranh” đã bắt đầu. Chúng ta đánh nhau với Kaiser…
Lúc đầu anh chưa thể nắm được
ý của anh ta. Vẫn còn đang sống với chuyện khó khăn nhỏ nhặt của riêng mình, anh
chưa thấm được cái tai hoạ to tát hơn này.
Trên boong, hành khách cùng thủy thủ tập
trung trong im lặng. Trong đám hành khách
có hai vị phụ nữ. Họ đã bước ra sàn tàu mà không đội mũ trên đầu,
làn gió thổi bay những lọn tóa loà xoà trên mặt họ. Thuyền trưởng
Patterson bước tới lan can tàu.
- Tôi nghĩ là hầu hết quý vị đã nghe tin tức buồn thảm này rồi. Nó không còn là sự kinh ngạc đối với
chúng ta. Ngày hôm qua, đoàn quân Đức đã
xâm chiếm nước Bỉ và chính phủ Nga Hoàng đã gửi tối hậu thư tới Bá Linh. Tối hậu
thư đã hết hạn mấy giờ trước đây, bây giờ chúng ta đang có chiến tranh với nước Đức.
Có tiếng lao xao trong đám đông
trên tàu, tiếng lao xao mang âm hưởng nửa thở dài nửa ra
vẻ đồng ý.
- Thật là… Tôi nghĩ hầu hết
chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra trong
vòng mấy ngày qua. Xin thành thực xin lỗi quý phu nhân. – Ông nhẹ cúi đầu về phía hai nữ hành khách. - Xin lỗi vì đã không thể đưa quý phu nhân trở về nhà trước khi chiến
tranh bùng nổ.
- Không có cách nào để tàu rời
bến sao?
Viên thuyền trưởng tỳ tay lên
lan can tàu.
- Lệnh từ chính phủ Anh Quốc chỉ thị cho tất cả tàu bè tạm thời đậu lại St
Peterburg. Chúng ta không có cách nào đi qua vùng biển Baltic. Chiếc Libau đã bị đội quân Đức oanh tạc và đang bốc cháy. Tất cả
tàu bè Anh Quốc đang ở biển Baltic được lệnh
ở lại.
- Chúng tôi có thể trở về bằng đường bộ không? Tôi phải quay lại
Anh Quốc càng sớm càng tốt vì có việc
quan trọng.
Một sự ồn ào hỗn độn nổi lên
trong đám hành khách khi tin tức cùng những
hệ luỵ của nó bắt đầu thấm vào người. Trong đầu Edwin hiện ra hình ảnh bản đồ châu Âu. St Peterburg ở một phía, và bên kia là hải cảng Leith và quê nhà, cách nhau qua vịnh Phần Lan, hiện tại còn an toàn, từ đó
dẫn ra vùng biển Baltic một phần bao
quanh bờ biển nước Đức .
- Tôi đề nghị rằng ngay khi
chúng ta minh bạch với giới thẩm quyền hải
cảng, điều này có lẽ cần một ít thời gian, chúng ta tất cả phải báo cáo với Lãnh Sự Quán. Theo sự hiểu biết của tôi, đường bộ vẫn chưa nguy
hiểm lắm, mặc dù vẫn còn phải vượt qua biển Bắc.
- Chúng tôi có thể ở trên tàu
cho đến khi mọi việc được xếp đặt không?
Viên thuyền trưởng hơi do dự.
- Tôi nghĩ có lẽ tốt hơn quý vị nên rời tàu càng nhiều càng tốt. Tàu sẽ phải ở lại đây khá lâu. Chẳng
có cơ may nào để ra khơi về nhà vào lúc này.
Hành khách không có ý xê dịch
tý nào, ngay cả đoàn thủy thủ cũng vậy cho tới khi toán bảo vệ phải đi giải tán họ. Dần dần, họ tản mác
xuống dưới. Sự cô lập Edwin đã sống trong ba tháng qua đã bị phá vỡ. Mỗi người
cứ trông chờ người khác tìm được lối giải
quyết.
- Hành khách thì được rồi. Nhưng còn chúng ta làm sao về?
- Đường bộ. Không nghe thuyền
trưởng nói à? Ông nói đường bộ còn đi được.
- Đi được cho hành khách thôi.
Chúng ta đâu thể rời bỏ tàu, ông bạn!
- Họ sẽ muốn chúng ta gia nhập
Hải Quân. – Edwin từ từ nói. - Họ sẽ bỏ
chúng ta lại đây.
- Này, này, Dân Nga cũng có HảI
Quân. Nếu mình không thể về , có lẽ họ sẽ đưa mình nhập vào đó.
Chiến tranh bỗng dưng vô hình chung làm họ xích lại gần nhau. Họ chia sẻ nhau từng điếu thuốc, và khi đám
an ninh bảo vệ đã rời phòng, đoàn thủy thủ cùng nâng tách trà ngọt của họ lên:
- Đả đảo Kaiser (Hoàng đế nước Đức)
- Hãy cùng uống vì điều đó.
Đả đảo Kaiser? Edwin
chẳng biết gì về Kaiser. Anh không biết gì về nước Đức hay vì sao chiến
tranh bùng nổ. Anh đã không đọc báo cũng không nghe tin tức trong ba tháng qua,
chỉ toàn sống với cái lò đốt dưới hầm tàu,
Nga ngữ và Galina. Anh đã có một
chút hoảng hốt khi hiểu ra cái nhóm nhỏ
của anh đã bị cô lập ra khỏi sự an toàn của quê nhà. Có một thoáng giây anh bỗng thấy
nhớ nhà, cảm thấy mong được gặp lại bố mẹ
và Sophie. Nhưng rồi giây phút nhớ nhà qua đi, anh lại thấy một nỗi nhẹ nhàng sâu xa và sự mừng rỡ vì đã bị mắc kẹt nơi đây, nơi chốn
Galina đang sống.
(xem
tiếp chương 16)
‘
No comments:
Post a Comment