Trôi theo mùa hè_29


                                                         Chương 29

                    Hành trình vượt thoát

T
uyết bắt đầu rơi. Mới cuối thu sang đầu đông, tuyết đã rơi  nhiều.  Ngôi làng đã bị cô lập với thế giới bên ngoài. Ngoại trừ  có một chiếc xe trượt tuyết do một tên vệ binh đỏ lái, không ai khác đến. Tên vệ binh đỏ đến trưng thu thực phẩm. Người dân trong làng buồn rầu nhìn hắn lấy đi mớ ngũ cốc và khoai tây của họ, rồi cấp cho họ những mảnh giấy vô dụng. Khi hắn đến, Daisy và Edwin ẩn mình lẫn lộn trong  đám dân quê, coi như  họ chỉ  là hai miệng ăn trong cái gia đình Yelena quá đông con cái này.
     Daisy có đủ áo quần cho mùa đông mang theo từ Buzulus. Cô chịu khó ôm  đi khắp nước Nga, ngay cả vào mùa hè, dù gói đồ trở thành nặng nề. Cô có một áo khoác bằng da cừu rất dầy và một đôi ủng nỉ, tạm đủ cho  mùa đông. Nhưng Edwin đã mất hết khi bỏ chạy khỏi Tver. Anh có một đôi giày da  đã gần mòn rách và không thể  dùng đi trên tuyết lạnh.  Chỉ trong giây lát, da giày bị cứng lại, và khi anh cởi giày ra, nó kéo theo một mảng da chân. Anh còn một chiếc áo khoác thủy thủ nặng nề mà anh đã mặc suốt mùa đông ở Tver, nhưng nó không đủ ấm  để chống đỡ cái lạnh ghê gớm của một miền quê đơn độc ở miệt Bắc sông Volga. Hai người phải chia sẻ chiếc áo da cừu với nhau, và Daisy phải đi khắp nơi trong làng xin xỏ những mảnh giẻ, tìm  những mảnh vải vụn  vô dụng dệt tại nhà, cùng với ít rơm, cô nhét  chúng ở  giữa hai lớp vải của cái khăn choàng cổ,  xếp lại thành  hình đôi vớ rồi đem cột vào chân Edwin giữ ấm cho mùa Đông.  Họ không còn  cảm giác được cái mùi hôi hám trong nhà bà Yelena nữa ,vì cái mùi ấy đã nhập vào cả hai người.
      Yelena là một người đàn bà tử tế, tốt bụng. Vào mùa hè, hai người  ra đồng làm việc kiếm ăn, nhưng vào mùa đông không có công việc đồng áng, họ trở thành hai kẻ ăn bám.  Trong lúc này, Edwin đi ra sông đục một lỗ lớp băng giá trên mặt sông để câu cá. Nhưng rồi thời tiết  ngày càng lạnh hơn,  tôm cá dường như biến mất và cuối cùng mặt băng quá dầy để  đập bể. Họ cố ăn uống ít đi, vì biết  mình không có tiền  bạc phụ vào chi phí  thực phẩm. Nhưng bà  Yelena đã lắc đầu  và chép miệng với vẻ ái ngại khi thấy hai người chỉ dám múc một chén rất nhỏ từ cái nồi súp để giữa bàn. Nhà bà tương đối không quá nghèo, mỗi người trong nhà còn  có một chén riêng để ăn hơn là  với những cái muỗng thọc chung một nồi. Bà đào thêm củ cải hầm chung  với khoai tây  và họ  quá đói để từ chối.
      Những năm tháng  thiếu ăn và làm việc quá nhiều  trong những điều kiện tồi tệ đã bắt đầu  ảnh hưởng đến sức khoẻ của Daisy. Cô đã  sống ở Nga được  hai năm rưỡi, thường trực đối diện với bệnh tật và   bụi đất, và trong  hơn mười tám tháng qua, vấn đề  ăn uống ngày càng thiếu thốn. Cô hay bị cảm lạnh, hết cơn này đến cơn khác. Sự chật chội trong  nhà bà Yelena không làm tình trạng  cô khả quan hơn.
     Ban đêm họ ngủ trên cái giường cạnh cửa ra vào gần lò sưởi nhưng không  được ở  trên mặt  lò.  Trên nắp lò sưởi, gia đình Yelena đã nằm chen chúc nhau, không còn chỗ cho hai người.  Thời tiết rất lạnh vào lúc trời gần sáng. Họ phải dùng cả hai cái áo khoác của hai người đắp thêm vào người.
     Vào tháng Giêng, tuyết  rơi ngập cao ngất quanh cái  kho vựa đến nỗi không thể nào mở cửa ra được. Edwin phải tháo tung phần trên cửa sổ chui ra ngoài xúc  đổ đi hàng núi tuyết từ trên mái tràn xuống. Anh nhìn  ra quang cảnh bên ngoài, dòng sông đã biến mất. Nó trở thành một phần của cánh đồng tuyết vĩ đại trắng xoá  trải rộng  chung quanh họ.  Phía Bắc là cánh rừng thông, và khi anh   nhìn ra xa, anh thấy một chiếc xe trượt tuyết do hai ngựa kéo đang lướt về phía họ. Tiếng leng keng của  những cái chuông trên cổ ngựa  nghe giòn giã trên không.  Anh cảm thấy  trong người dấy lên nỗi phập phồng lo lắng. Rất nhiều tin đồn bay tới về  chuyện người  nước ngoài bị giết tập thể ở các thành phố,  về  những màn bắt giữ bí mật trong đêm, về lệnh cấm  bất cứ ai cũng không được  xuất ngoại. Mỗi tin đồn đãi  càng làm  hy vọng trốn thoát của họ mỏng manh hơn, nhưng cái mùa đông nước Nga đã  phần nào đã kiềm chế được cái hậu quả  buông xuôi của họ. Hai người biết họ phải làm một điều gì đó, nhưng  giờ chưa phải lúc.
    Chiếc xe trượt tuyết tới gần hơn. Ngoài người đánh xe, còn thêm một người đàn ông khác. Cả hai người đều đeo ỏ bên ngoài  áo khoác họ mặc những tràng dây đạn làm tim anh  thắt lại. Họ trông có  vẻ như  là công an hay cán bộ an ninh. Chiếc xe vượt khỏi nhà bà Yelena rồi ngừng lại trước cửa  nhà thờ.  Edwin vội vã chui  lại vào cửa sổ kho vựa  và đi vào căn phòng chính trong nhà.
-    Bọn công an. – Anh  thì thầm với Daisy. - Bọn họ ngừng ở  bên nhà ông linh mục. Chúng ta không thể nào  trốn đi mà bọn chúng không nhìn thấy. Chúng lại có xe, dễ dàng theo dấu chúng ta.
-     Anh leo lên trên nắp lò sưởi đi, - cô nói. – Hãy giả vờ ngủ  và hy vọng bọn chúng không để ý  tới anh. Tôi trông giống một dân quê ,còn anh thì không.
     Cô trở lại công việc nướng bánh, lấy những ổ bánh mì ra khỏi lò, và rồi cánh cửa bỗng bật tung, hai người đàn ông tiến vào. Daisy  bất ngờ kêu khẽ lên    đánh rơi vài ổ bánh xuống sàn.  Cô làm bộ càu nhàu   và cúi xuống lượm bánh lên. Khi cô  quay mặt lại đối diện họ, cô đã lấy lại  được sự bình tĩnh.
-     Có hai tên ngoại quốc  làm gián điệp  ở đây. Bọn chúng đâu?
     Yelena kêu lên một tiếng sợ hãi và  kéo hết đám con lại quanh  người. Bà nhìn   Daisy với khuôn mặt hết sức kinh hoàng. Daisy biết  giờ là lúc cô không thể trông chờ gì ở họ nữa. Cô đặt mâm bánh xuống.
-     Tôi là nguời ngoại quốc. –  Cô nói. – Nhưng  tôi không làm gián điệp.
-     Còn  người nữa đâu?
      Edwin  từ trên nóc lò sưởi tụt xuống đứng choàng vai Daisy.
-    Trình giấy tờ!
     Daisy vén váy lên lấy  trong túi ra một cái ví. Không nói năng, cô đưa giấy tờ ra. Tên nhỏ con hơn cướp lấy tất cả giấy tuỳ thân, giấy  lưu trú, giấy phép  đi đường mà cô được cấp ở Mạc Tư Khoa.
-     Người bạn của tôi đây, giấy tờ đã bị đánh cắp.  Anh bị   người ta tấn công khi đi trên sông và bị cướp sạch, rồi bị ném xuống nước cho chết. May mắn gặp bà đây tử tế cứu sống và cho ở nhờ.
     Edwin nhận thấy lúc này  Daisy nói y hệt giọng  nói của dân quê địa phương.
-    Mày là người Anh? Cả hai đều là dân Anh?
-     Phải.
-     Tao nghĩ tụi bay là gián điệp. Tụi bay đi theo tao.
     Tên còn lại, chính là  người đánh xe tháo khẩu súng đeo trên vai xuống.
-     Đi ra !
     Hai người chỉ vừa kịp lấy áo choàng khoác vội lên người trước khi bị chúng đẩy ra khỏi cửa. Khẩu súng dí vào  phía sau gáy Edwin, và họ bị đẩy  về hướng nhà thờ, nhưng không vào trong mà đi vòng ra phía sau  vào sân nhà thờ.  Một tia buốt lạnh nhói lên trong tim Edwin. Chắc họ sắp sửa bị xử bắn.
-     Làm ơn coi kỹ lại giấy tờ của tôi giùm. – Daisy nói thật bình tĩnh. – Tôi là nhân viên của một đơn vị  thuộc  hội Thân Hữu Cứu Tế Thiện Nguyện Quakers. Có lẽ các ông cũng có nghe nói về chúng tôi. Chúng tôi đang chăm sóc cho những người tỵ nạn ở miền Nam. Các giấy tờ của tôi được chính tay ủy viên Sô Viết  bộ An Sinh Xã Hội ở  Mạc Tư Khoa ký. Tôi có các giấy phép đi  đường và sổ thông hành đặc biệt gia hạn do chính ông ấy cấp phát. Người của tôi, những người bạn của nước Nga đang cứu giúp những người nghèo. Chúng tôi là bạn của cách mạng Bôn Sê Vích. Tôi yêu cầu ông coi cho kỹ giấy tờ của tôi. Đồng chí uỷ viên ở Mạc Tư Khoa rất  có cảm tình đặc biệt với tôi.
     Edwin cảm thấy mũi súng đã rời khỏi cổ. Anh quay đầu lại thật chậm. Tên nhỏ con hơn,  tên nguy hiểm hơn theo cảm nhận của anh, đang  chòng chọc nhìn Daisy  một cách lạnh lùng vô cảm. Hắn ta  lôi cái ví từ trong túi ra và với bàn tay đeo găng, hắn vụng về lật  mở giấy tờ ra coi lần  nữa.  Chi chít những chữ ký và ấn mộc  đóng trên đó  làm hắn chú ý.
-     Người này  đi theo chúng tôi về Rostov. - Hắn chỉ tay vào Daisy. – Để coi các đồng chí thủ trưởng ở đó nói gì. Án lệnh của nhà ngươi sẽ được  tòa án Sô Viết phán quyết.  Còn tên này. - Hắn chỉ vào Edwin. - Bắn nó.
-     Không được! – Daisy la  toáng lên  giữa cái khung cảnh lạnh lẽo. – Không được bắn! Anh ta cũng  là nhân viên của hội Thân Hữu  Cứu Tế Thiện Nguyện. Giấy tờ của  anh cũng hoàn toàn giống y như của tôi. Viên chính ủy Sô Viết ở Mạc Tư Khoa  đã ra lệnh cho tôi tới làng này tìm anh và đưa về Mạc Tư Khoa. Ông ấy nói anh này là một người rất cần thiết trong công việc cứu tế. Anh là một nhân vật quan trọng ở tại Anh Quốc. Khi anh về tới Mạc Tư Khoa, chữ ký của anh tối cần thiết  để có một lô hàng hoá thực phẩm đặc biệt được chấp thuận và gửi qua đây. Cả tiền bạc nữa.  Anh có thẩm quyền để  vận dụng tiền bạc cho việc  mua sữa và   ngũ cốc mang đến Mạc Tư Khoa.
     Cô gào lên bằng  một thứ tiếng Nga líu lo  lưu loát đến nỗi Edwin bắt đầu không hiểu. Cô chỉ vào giấy tờ của cô, vào Edwin. Giọng cô trôi chảy, mạnh mẽ và  còn ra vẻ có uy lực. Anh  nghe được những tên : Chincherin lãng đãng trong  một loạt lời lẽ hùng biện chính thức của cô.  Anh thấy dường như tên chỉ huy ra vẻ do dự và dường như Daisy cũng cảm thấy thế.  Cử chỉ của cô thay đổi. Cô ra vẻ hống hách và  doạ nạt. Tên cán bộ đút lại giấy tờ vào túi áo.
-     Tụi tao sẽ đưa nó về Rostov luôn. - Hắn nói. - Cả hai người sẽ ra trước toà án Sô Viết ở Rostov.  Tên này. - Hắn chỉ vào Edwin. – Tao vẫn nghĩ mày là một tên gián điệp.
      Edwin thấy đã có một tia hy vọng nhỏ nhoi. Giờ chỉ còn mình  anh bị gán tội gián điệp.  Bọn chúng dường như chấp nhận Daisy không phải gián điệp. Nếu chỉ minh Daisy được thả ra, anh đã thấy đủ hài lòng.
-     Cột tay chân nó lại và để cho cả hai nằm dưới sàn xe.
     Tên cán bộ công an ra lệnh, và tên đánh xe  đẩy hai người  về phía những con ngựa đang đứng chờ. Edwin thu mình lại ở dưới cuối xe và tên đánh xe xô anh tới phía trước, rồi hắn cột hai chân anh lại với nhau, hai tay cũng bị bẻ quặt ra sau cột lại. Daisy với gương mặt trắng bệch ngồi cạnh anh bị dồn ép bẹp dí vào cái khoảng trống chừng hai tấc rưỡi. Trên chỗ ngồi phía sau hai người, tên công an ngồi chĩa thẳng nòng súng vào đầu họ. Tên đánh xe vung roi lên và chiếc xe  lăn xuống sườn đồi đầy tuyết băng qua con sông đã đông cứng. Anh cố nhớ lại trong trí  hình thể địa lý của vùng đất địa phương. Anh nghĩ thành phố Rostov  ở vào khoảng sáu mươi dặm xa. Sẽ mất từ năm tới sáu tiếng để đi tới đó.
     Trí óc anh lúc này  hoàn toàn sáng suốt và anh không thấy sợ hãi. Chắc chắn không nghi ngờ gì, bọn chúng sẽ xử tử anh ở Rostov. Nhưng còn Daisy thì sao? Cho dù bọn chúng có quyết định đưa cô về Mạc Tư Khoa để  làm rõ  lời khai của cô, cho dù  văn phòng trụ sở hội Quakers vẫn còn đó, một lúc nào đó họ sẽ khám phá ra cô đã dối trá về thân phận của anh. Vậy là vì bảo vệ cho anh, cô đã tự kết án mình. Daisy sẽ không thể bị chết, đó là điều anh  quyết định. Nếu phải tấn công hai tên này với hai tay bị trói, cô cũng không thể chết. Anh cảm thấy một  khí phách táo bạo  chảy vào mạch máu. Phải chờ đợi  thời cơ và dự tính kế hoạch. Ở một thời điểm nào đó giữa hành trình, bọn chúng sẽ phải dừng lại. Anh sẽ hành động  khi thời cơ đến.
     Khí lạnh thấm vào người qua chiếc áo khoác thủy thủ, Daisy  di chuyển sát vào người anh hơn. Bàn tay  đeo bao tay tự chế của anh bắt đầu tê dại mất cảm giác. Dây trói quanh cổ tay làm cho máu  khó lưu thông, nên anh bắt đầu  cử động những ngón tay,  cố mở ra nắm lại cho chúng khỏi bị tê cóng. Daisy ngồi dậy và cởi áo khoác ra. Tên công an dùng súng thúc vào vai cô.
-     Ngồi yên. Không được cử động nếu không được phép.
-    Áo bạn tôi mỏng quá. Tôi muốn  lấy áo của mình choàng cho cả hai chúng tôi.
      Mũi súng  hướng theo từng cử chỉ của cô khi cô  xoay người  ra sau lưng Edwin,  kéo áo khoác  khỏi vai, cô trùm qua người anh và cột tay áo ngang ngực anh. Anh biết cô có ý gì và cũng không tin là tên công an không nghĩ đến điều ấy. Hai người nằm bất động giả vờ ngủ và cầu  cho tên công an  không  suy nghĩ  như bình thường. Một giờ trôi qua, rồi hai giờ, các phản ứng trở nên  mơ hồ,  sự cảnh giác của tên công an dần dần trở thành cái chịu đựng  sự lạnh buốt.
    Anh cử động hai bàn tay mà không để cho cánh tay hay bất cứ phần thân thể nào lay động. Ba giờ  trôi qua, ba tiếng  đồng hồ hai người đã để thân mình  cứng ngắc, cố không để cho hắn thấy  có cử động của những ngón tay của Daisy đang  từ từ  tháo gỡ dây trói.  Anh vặn cổ tay và cảm thấy bàn tay có thể  di chuyển  lướt từ phía này qua phía khác. Rồi  anh thấy cổ tay  không còn bị xiết. Cái dây trói đã lỏng ra, chỉ cần kéo mạnh, bàn tay hoàn toàn tự do.
-     Tôi muốn đi  đái.
-     Chờ đó.
-     Mắc lắm rồi. Tôi không thể chờ nữa.
     Hắn lầm bầm  với tên đánh xe đồng hành và chiếc xe bắt đầu giảm tốc độ. Khi chiếc xe đã dừng lại, tên công an thúc mũi súng vào người anh. Daisy  cũng  di động  thân hình, xoay xở uốn éo  để cho    ở phía trước anh. Còn anh vẫn bất động.
-    Từ từ đứng lên và quay mặt ra ngoài. Tao sẽ cởi trói, và tao sẽ bắn bỏ nếu mày có bất cứ cử động nào khác ngoài việc đi đái.
     Anh  cố giữ thăng bằng  dưới hai đầu gối lạnh cứng. Phải chi  anh không bị quá lạnh làm tay chân tê cứng lại. Anh  uốn éo bắp thịt chân một chút và cố  chống chỏi cái lạnh và  sự tê cứng bằng trí óc. Rồi, bằng một  quyết tâm, anh bỗng vùng đứng dậy   dùng vai đẩy nòng súng bật lên. Tiếng súng nổ bay lên trên không. Và khi tên công an ngã người ra sau, anh chồm tới trước, giật bung dây trói,  dùng tay bóp chặt cổ họng tên công an. Đám ngựa, hoảng hốt vì tiếng súng nổ, lồng lên chạy. Tên đánh xe vừa cố  ghìm giữ giây cương vừa cố xoay mũi súng lại.
-     Nằm xuống Daisy, nằm xuống!
    Không biết bằng cánh nào, với một sức mạnh siêu việt, anh đã  xoay đưọc thân thể tên công an ra  chận trước giữa anh và tên đánh xe. Hai tay hắn cào vào mặt anh.  Thực sự hắn thật  khoẻ, mạnh hơn  Edwin nhiều, chỉ nhờ vào  yếu tố bất ngờ của cuộc tấn công đã cho Edwin một lợi thế. Anh dùng đầu gối tống vào háng hắn, nhất quyết chơi một cú trời giáng có hiệu quả cho dù sau những lớp vải dầy cộm hắn mặc, và tên công an  gập người xuống, buông rơi hai bàn tay khỏi mặt anh. Edwin kéo sợi dây trói vẫn tòng teng trên cổ tay anh vòng qua cổ hắn, căng hai tay ra xiết chặt lại, biết rõ mình đang giết hắn, cố ý giết hắn, quyết tâm giết hắn để cứu Daisy.
     Chiếc xe trượt tuyết chạy vọt tới trên mặt tuyết,  tên  đánh xe lắc lư  và xàng xê từ trái qua phải, vừa cố giữ thăng bằng vừa cố xoay mũi súng lại.
     Edwin không cho phép mình suy nghĩ bất cứ gì khác ngoài việc  xiết chặt sợi dây.  Phía sau gáy tên công an đã trở nên tím bầm. Anh mơ hồ  thấy  hài lòng vì không phải nhìn  gương mặt hắn.  Anh cũng mơ hồ thấy Daisy đang đứng dậy, nhưng anh không còn hơi sức để  la lên với cô. Từ  cái liếc sơ, anh thấy cô  chụp  lấy mũi súng của tên lái xe đẩy mạnh kịch liệt ngược vào bụng của hắn. Tên lái xe bị lảo đảo qua một bên, hắn bóp cò, viên đạn  bay ra vô hại trên không và hắn rơi khỏi  thùng xe xuống mặt tuyết.
-     Dừng lại! Dừng lại.
      Bỗng nhiên, cái thân người bên dưới cánh tay anh kéo trì  xuống. Anh giữ sợi dây xiết cổ thêm một lúc  nữa đề phòng một trò giả chết,  và rồi buông ra cho nó  đổ xuống sàn xe, người run lên bần bật vì gắng sức quá độ. Daisy  cố bám chặt lấy chỗ ngồi lắc lư phía trước trong khi  Edwin  buông tay ra khỏi tên công an đã chết leo lên  thùng xe nắm lấy dây cương ngựa. Anh không muốn chúng ngừng lại. Đằng sau anh là tên đánh xe với khẩu súng trong tay. Anh muốn tránh  hắn càng xa càng tốt. Từ khoảng cách xa xa, anh có thể lờ mờ thấy một khu rừng. Thật chậm rãi, anh điều khiển đám ngựa để chúng chạy về hướng đó. Anh cảm thấy Daisy đang tháo gỡ sợi dây cột chân anh. Sau chừng nửa giờ, hai con ngựa bắt đầu chậm lại, và cuối cùng, khi đã tới được khu rừng, anh kéo cương cho chúng  dừng lại. Hai con ngựa  vã mồ hôi như tắm. Edwin cũng không kém gì.
     Hai người lôi thi thể tên công an ra khỏi xe, cố không nhìn đến gương mặt sưng phồng lên của hắn.
-     Giữ lấy cái áo khoác của nó, anh Edwin.  Nó không có huy hiệu hay bất cứ gì, và lại rất dầy. Cả cái mũ nữa. Không có gì chứng tỏ chúng thuôc về đám vệ binh đỏ.
     Edwin cởi áo hắn ra, xoay mặt hắn úp xuống đất và  thấy nhẹ nhàng hơn khi không phải nhìn hắn nữa. Anh lục soát trong túi áo, lấy ra cái ví  đựng giấy tờ của Daisy đưa cho cô. Sau đó anh lục lọi tất cả những giấy tờ còn lại.  Thẻ căn cước có hình ảnh của hắn dán trên đó,  trông không giống Edwin một chút nào.
-    Rất là nguy hiểm – Cô nói. -  Cho dù có cạo sửa tấm hình đi, anh vẫn không qua mắt được lũ công an với giọng nói của anh. Anh phải bỏ nó đi.
-    Có một  ít tiền đây. Tốt lắm.  Lấy nó để  khi cần đem hối lộ. Có lẽ sau này  tôi sẽ tìm cách ăn cắp mớ giấy tờ thông thường dễ hơn.
-     Chúng ta làm gì bây giờ?
-      Nếu có thể, cứ tiếp tục đi tới Rostov. Đưòng xe lửa  chạy qua đây về tới Mạc Tư Khoa. Nếu chúng ta có thể kiếm cách leo lên được xe lửa không cần giấy phép đi lại, chúng ta có thể tới được Mạc Tư Khoa. Tới được đó rồi sẽ tính tiếp.
     Anh mặc áo đội mũ vào rồi đào lấy một chỗ trũng dưới mặt tuyết chôn cây súng và thi thể tên công an. Thật cẩn thận, họ lấy tuyết đắp lại  sao cho không ai có thể nhận ra có gì bên dưới.
-     Làm sao chúng ta biết Rostov ở hướng nào?
     Anh nhìn lên bầu trời về phía mặt trời đang thấp dần.
-      Nó ở về phía đông nam  của ngôi làng mình trú ngụ.  Từ lúc bị bắt, chúng ta đã đi theo hướng đông nam. Giờ cứ tiếp tục theo hướng này, và hy vọng chúng ta sẽ gặp một cái gì trước khi trời tối.
    Hai người không nói gì. Nhưng họ biết rằng, nếu không tìm được một chỗ trú ngụ  trước khi mặt trời lặn thì cũng không khác gì bị bắn.
     Ra khỏi khu rừng chừng nửa tiếng, họ  chạm được  đường rầy chạy ngang mặt tuyết. Họ quẹo qua bên phải, bởi Mạc Tư Khoa nằm ờ phía đông, nhưng còn rất nhiều dặm đường xa, và khi  màn đêm rơi xuống nền đất tuyết  trắng xoá, họ nhìn thấy ánh đèn  của một thị trấn. Đó là Rostov.
     Đêm đó, hai người xin ngủ nhờ trong một nhà dân nghèo ở ngoại ô thành phố. Kinh nghiệm dạy cho cả hai biết những người nghèo thường đối đãi tử tế hơn những người cư ngụ trong phố. Họ bỏ lại chiếc xe trượt tuyết ở bên ngoài Rostov, tháo cương  thả hai con ngựa để cho bất cứ ai may mắn thấy chúng trước bắt mang về. Sáng hôm sau, họ bắt đầu cuộc chờ đợi ba ngày ở nhà ga xe lửa đi Mạc Tư Khoa. Đám đông càng ngày càng đông. Dịch sốt rét truyền nhiễm hoành hành khắp thành phố, và những người có khả năng đều lo lắng thoát đi trước khi dịch bệnh truyền sang. Khi cuối cùng xe lửa cũng tới, Edwin  tranh thủ đẩy được Daisy lên một toa hàng, còn anh bám được vào  ngưỡng cửa toa. Giờ anh đã có áo ấm và với sự may mắn, bàn tay anh có thể đủ sức bám chặt cửa toa.  Chỉ trong vài giờ, khi cái xóc của xe làm cho những thân thể hành khách ổn định vị trí, anh đã có thể chen vào bên cạnh Daisy. Anh đã mua vé xe cho Daisy với giấy tờ của cô, và vé xe của anh  bằng sự hối lộ với mớ tiền của tên công an bị giết. Một nửa số người nằm trên mui xe lửa và bám vào  toa  đã không mua vé, nhưng anh lo lắng  là hai người đã có quá nhiều rắc rối không thể liều đánh cược thêm nữa.
     Sau này, khi nghĩ lại, anh tự hỏi tại sao cái hành trình với Daisy này đã không  làm anh nhớ lại về một hành trình  khác, chuyến  đi với Galina, người đàn bà dâm dật đáng yêu và yểu mệnh của anh đã nằm lại trong nghĩa trang  ở một làng  xa  miền bắc. Nhưng anh đã không bao giờ nghĩ lại một lần. Lúc này anh có hai điều cần lo lắng, một là  làm sao để bọn vệ binh không gây rắc rối vì anh không có giấy tờ tùy thân hay giấy phép thông hành, hai là tình trạng thể chất  đã suy yếu của Daisy có  chịu đựng nổi chuyến đi  gian truân không. Không một lần nào anh thoáng nghĩ đến Galina hay tên công an  anh đã giết chết vùi trong tuyết.
     Khi bọn cảnh vệ lên  toa kiểm soát, Daisy đang lên cơn sốt. Một trong những cơn cảm sốt   dữ dội  hành hạ thân xác cô và làm cho khuôn mặt  còm cõi của cô phừng đỏ, mồ hôi vã ra đầy trán. Cô cố ngồi dậy, sẵn sàng giúp đỡ anh với  những tra xét của cảnh vệ, nhưng điều đó đã không cần thiết. Tình trạng vê sinh trong toa chở hàng  quá sức dơ bẩn. Họ đã ở trên toa được hơn bốn mươi tám giờ. Một góc toa được dùng làm  phòng vệ sinh. Ngày hôm trước có một hành khách  đã chết và người ta đã quăng thi thể ra khỏi toa xe. Tên bảo vệ luôn  miệng ho hen và khạc nhổ ra ngoài cửa. Edwin đưa cho hắn một đống giấy tờ, tất cả là của Daisy.
-     Các người từ đâu đến? – Tên cảnh vệ hỏi mà không nhìn  giấy tờ.
-     Rostov. Ở đó đang có dịch sốt rét truyền nhiễm. Vợ tôi đang bị bệnh.
     Tên cảnh vệ nhìn vào gương mặt đẫm mồ hôi của Daisy, quăng trả lại giấy tờ. Hắn nhảy vội xuống khỏi toa xe và đóng mạnh cửa.
     Họ tới Mạc Tư Khoa vào sáng hôm sau. Thật quá  khó khăn  để tìm được một phương tiện giao thông còn hoạt động và  tuyết rơi trên mặt đường không được  quét dọn đã nhiều ngày. Những hàng người
 phụ nữ  u sầu dài  dằng dặc nối đuôi nhau trước cửa các tiệm bánh mì   nhắc nhở anh đến  thành phố Petrograd những ngày trước cuộc cách mạng. Chẳng có gì thay đổi. Mọi việc vẫn tệ hại như ngày nào.
     Daisy đã lấy lại sức  khi nhận ra bao nhiêu khó nhọc họ đã trải qua trong  hành trình này. Trong ít ngày qua, Edwin đã nhìn thấy sức khoẻ và tinh thần của cô  đang suy nhược. Cô đã dùng phần sức mạnh cuối cùng  đập ngã tên công an trên xe trượt tuyết.  Tuy nhiên ở Mạc Tư Khoa dơ dáy bẩn thỉu và lạnh buốt nhưng  quen thuộc này, niềm hy vọng của cô đã trở lại.
-    Chúng ta hãy tới lãnh sự quán. – Cô nhanh nhẹn nói. -  Trước đây, họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, và họ có nói họ có thể giúp nếu tôi đưa được anh  tới  đây. Cho dù anh mất hết giấy tờ, họ  sẽ tìm cách giúp đỡ.
     Hai người đã phải đi bộ từ nhà ga Yaroslav, một chuyến đi bộ dài dưới làn gió lạnh buốt thổi oà vào mặt mũi, nhưng Daisy dường như trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn theo từng mỗi bước chân. Chính vì việc này mà cô đã đến nước Nga, đi tìm kiếm khắp các làng mạc dọc theo dòng Volga, và ở lại bên cạnh Edwin cho tới khi anh hồi phục  sau cơn bất ổn tâm trí.  Đây chính là cái mục đích cô nhắm tới, cứu anh và đưa anh trở về nhà  bên Anh Quốc. Khi họ tới trung tâm thành phố, cô bắt đầu  nhận ra mình đang ở đâu, bước chân cô trở nên  mau lẹ, cứ như lãnh sự quán là nhà cô vậy. Và rồi cô ngừng lại.
-     Nó đây. – Cô nói với vẻ ngơ ngác chưng hửng.
     Cánh cửa  bị chận lại và một tên lính  qua lại canh gác. Có điều gì là lạ  khi nhìn  qua chỗ ấy. Một chiếc xe tải chạy đến và một tên lính từ trên xe nhảy xuống   nhập với tên đồng chí của hắn. Hai tên bèn tháo bỏ rào chặn ngang cửa và đưa ba người đàn ông và một người đàn bà, tất cả là người Nga, vào cửa. Bọn lính nhìn thấy Edwin và Daisy đang nhìn, một tên chỉ tay về  phía Edwin. Daisy vội kéo anh  quẹo tránh ra góc đường.
-     Có chuyện không hay. – Cô run run nói. – Lãnh sự quán không còn ở đó. Chắc họ đã phải di chuyển.
-    Cô còn có thể hỏi ai nữa?  Còn ai khác cô quen ở thành phố này?
-     Hội Hồng Thập Tự. Chúng ta sẽ đi tới Hồng Thập Tự. Tôi biết chỗ  của họ. Thế nào họ cũng giúp đỡ. Họ có lẽ không thể cấp giấy tờ lại cho anh, nhưng họ sẽ cho mình biết lãnh sự quán đã dời đi đâu.
     Họ lại bắt đầu đi. Daisy đã thấm mệt. Cô tựa vào người anh và không thể đi nhanh. Cả hai đều đói khát, nhưng Daisy rất lo sợ phải dừng lại một chỗ, chỉ e có người tới hỏi giấy tờ.
     Bên ngoài trụ sở Hồng Thập Tự cũng có  bọn cảnh vệ canh gác. Một tờ yết thị lớn dán bên ngoài kêu gọi dân chúng Nga chiến đấu chống lại sự can thiệp của quân Đồng Minh  và bọn tướng lãnh tay sai ( không cộng sản). Daisy bắt đầu sụt sùi khóc.
-    Tôi không còn biết phải làm gì nữa bây giờ. Tôi cứ nghĩ là có thể đưa anh về được. Giờ tôi không biết phải đi đâu…
     Edwin  bỗng cảm thấy  một trời trách nhiệm  trút lên người anh. Cô đã chiến đấu  như một  chú chó săn nhỏ dũng cảm để tìm kiếm và thuyết phục anh ra đi.  Cô đã trở nên một sinh vật nhỏ bé nhưng thật  cứng cỏi, mạnh dạn, bền bỉ  mà anh khó lòng nhận ra như một Daisy nhút nhát  thời còn thơ dại. Anh thực sự đã không có thì giờ để ngưng lại và suy nghĩ vì sao  cô đã làm những việc này. Không thể giả vờ như đó là việc để cứu giúp Galina, và chính anh cũng không thực sự muốn  suy nghĩ quá nhiều về  lý do gì cô phải cứu anh. Nhưng lúc này cô đã mệt mỏi và đau yếu, và anh cảm thấy một cục đàm ứ trào lên cổ họng, làm anh thấy tội nghiệp  cho cô. Giờ là phận sự của anh. Cô đã hoàn thành điều bình thường không  ai có thể làm.  Giờ tới phiên anh phải cứu cô.
-     Còn một chỗ  nữa chúng ta có thể tới. Còn có duy nhất một người may ra có thể vẫn còn ở trong thành phố Mạc Tư Khoa này, và có thể  giúp chúng ta một tay.
     Anh choàng tay ôm ngang người cô dẫn đi khỏi trung tâm thành phố, quay trở lại nhà ga. Anh nhớ lại có nhìn thấy một căn nhà bằng gỗ ở cuối phố, một quán cà phê bình dân cho dân lao động, nơi có lẽ khá an toàn nếu hai người không  lưu lại quá lâu. Với nửa đồng Rúp, họ có được hai  cốc cháo loãng và một mẩu bánh mì đen. Anh nhìn Daisy dùng hai tay ôm chặt cốc cháo ủ nó vào ngực lấy chút hơi ấm.
-    Daisy! Khi nào cô thấy khá hơn một chút. – Edwin nói. -  Tôi nhờ cô hỏi người phục vụ cháo  coi làm sao để đi đến  quận Stretenskaya.
     Daisy hít  hơi vào và gật đầu, cô quá mệt để hỏi anh muốn làm gì.
     Địa chỉ của ông Heikki Rautenberg bừng lên trong trí anh. Anh đã thuộc lòng nó từ khi anh và Galina  hoảng hốt bỏ trốn ở Petrograd. Mọi chuyện về ông Heikki vẫn còn nguyên vẹn trong anh từ những ngày xưa ấy: “ Tôi không bao giờ muốn gặp lại anh nữa”.
     Câu nói giờ không còn nghĩa lý gì.  Kể từ ngày ấy đã xảy ra chiến tranh, rồi cuộc cách mạng. Các giá trị giờ đã khác xưa. Bây giờ việc quan trọng hơn là làm sao tìm ra thực phẩm để ăn, một nơi chốn để ngủ, để  sống còn, để ra khỏi cảnh  tù tội, để  có giấy tờ hợp pháp, để trở về nhà.
     Họ tìm được căn hộ vào  khoảng xế chiều. Lối vào cổng bị  chặn lại bởi một đống tuyết  đã không được hốt đi trong nhiều tuần lễ. Anh đoán, ngôi nhà có thời đã rất sang trọng. Bây giờ nó dơ bẩn tồi tàn và  lỗ chỗ sứt sẹo vì  vết đạn. Hai người leo lên  bậc thang  từ dưới sân và dòm vào phía trong cửa. Trong đầu óc anh thầm cầu nguyện mong  lần này có  ai đó bên trong. Ít nhất, không có  bọn cảnh vệ  có trang bị vũ khí ở trong nhà.
    Cánh cửa chỉ hơi hé mở chút ít và một giọng nói phát ra.
-     Các người muốn gì?
-   Tôi muốn được  nói chuyện với ông Rautenberg. Tôi là một người bạn  đến từ Petrograd.
     Cánh cửa được mở rộng thêm một chút, và anh thấy mình chăm chú nhìn vào khuôn mặt của một ông già ốm yếu sầu thảm, người chỉ có một chút phảng phất  cái con người vui vẻ duyên dáng  của  những ngày  ở Luân Đôn thuở trước.
-     Heikki! Có phải ông đó không?
     Ông bối rối mỉm cười và mở cánh cửa rộng hơn. Trong một lối hơi e dè, ông dường như thực sự hài lòng được gặp anh.
-    A! Anh bạn cũ của tôi. Đã nhiều lần tôi có nghĩ tới, anh bạn giờ ở đâu?  Chuyện gì xảy ra? Bạn bè cũ  quá nhiều người đã ra đi…Quá nhiều người chết… chiến tranh,  bị bắt giữ…thủ tiêu…
-     Đây là…cô em gái của Galina. Và tôi phải báo tin cho ông. – Anh nhìn vào một đốm nhỏ trên đầu ông. -  Cô ấy chết rồi…Galina…đã chết…vào mùa hè vừa qua…
     Heikki đã không đáp lại. Ông dẫn hai người đi vào nhà. Căn phòng có một thời  sang trọng. Trên sàn vẫn còn trải thảm, nhưng đồ đạc thuộc loại rẻ tiền gồm một cái bàn gỗ, ba cái ghế và một cái giường trong một góc phòng. Các rèm cửa sổ đóng lại che đi  bầu trời đen tối và  tuyết  trắng lất phất rơi.
-     Có quá nhiều cái chết. – Ông ta thở dài. – quá nhiều. Vợ tôi, cả con trai tôi nữa.  Chúng tôi không có thực phẩm để ăn. Mùa hè vừa qua  ở Mạc Tư Khoa thật thê thảm, không thực phẩm, không thuốc men, mọi thứ đều bị tịch thu. Con trai tôi mắc phải bệnh yết hầu và tôi không thể tìm được bác sĩ đến chữa bệnh. Rồi đến phiên vợ tôi bị lây từ đứa con. Giờ tôi chỉ còn mỗi căn phòng này. Mọi phòng khác   trong nhà đã có ba gia đình từ quận Mười đến cư ngụ. Tôi cũng chẳng quan tâm đến nó nữa. Giờ tôi chẳng còn gì và tốt hơn là khỏi phải sống đơn độc. Họ cũng không tệ.
    Trên vai ông có một cái khăn choàng và  một lò sưởi để ở góc phòng, nhưng chỉ có vài que củi đang cháy dở.
-     Chúng tôi gặp trắc trở. Chúng tôi đã đi đến lãnh sự quán Anh Quốc và tới Hồng Thập Tự. Chúng tôi cần được giúp đỡ mới trở về nhà được. Giờ tôi chẳng có giấy tờ gì, lại còn phải xin sổ thông hành mới. Các nhân viên chính thức,  những người có thể  giúp đỡ chúng tôi, họ đi đâu hết rồi?
-    Đi hết rồi. Họ đã rời thành phố. Ở đây giờ quá nguy hiểm cho họ. Nước Anh và nước Pháp giờ là kẻ thù  đáng ghét của cách mạng.  Họ may mắn đã không bị giết chết.
-    Giờ không ai có thể giúp đỡ chúng tôi sao?
-  Hồng Thập Tự Đan Mạch vẫn còn ở đây. Và có ngày tôi nghe là Holmbo, viên lãnh sự người Na Uy vẫn còn ở lại.
     Edwin thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Anh đã bắt đầu cảm thấy cơn ác mộng bao trùm lên mọi thứ khi không thấy có con đường nào  cho họ ra khỏi  ngõ cụt này.  Hội Hồng Thập Tự Đan Mạch… Có lẽ họ sẽ giúp được cô ta.  Anh chỉ tay về phía Daisy đang ngồi ở  bàn.
-      Nếu  chỉ có thể đưa mình cô ấy về, tôi đã thấy  hài lòng rồi.  Bây giờ đối với tôi, chuyện trở về coi như không thể  làm được. Nhưng với cô ấy, tôi muốn  cô ấy về được lại nhà.
     Daisy  đã gục xuống bàn, đầu gối lên cánh tay. Cô đang ngủ.
-    Vậy thì! – Heikki nhìn cô nói. – Cái cô này, không giống chị cô mấy, không xinh đẹp , phải không?
      Không, cô không xinh đẹp. Sẽ chẳng bao giờ xinh đẹp, theo cái lối xinh đẹp của Galina. Nhưng cô đang đau yếu và rất can đảm. Cô đáng để được cứu giúp.
-     Chúng tôi có thể ở lại đây đêm nay không? Giờ đã quá muộn để đi tới hội Hồng Thập Tự Đan Mạch. Cô ấy mệt quá rồi. Hôm nay chúng tôi đã phải đi bộ một đoạn đường dài từ thành phố về đây.
     Họ dìu cô lên cái giường trong góc phòng của ông Heìkki. Hai người đàn ông ngồi qua đêm trên bàn,  vừa gà gật ngủ vừa  rời rạc nhắc lại chuyện vui buồn  của thời gian cũ. Những ký ức về Galina làm cả hai đau lòng khi họ nhắc đến cô. Edwin nhận ra mình sẽ không bao giờ xoá được vết thương lòng này. Bao lâu anh còn sống, những kỷ niệm với cô sẽ còn làm anh đau đớn và mong  đợi. Ngọn nến trên bàn  cứ tan chảy dần trong đêm, khi Edwin  từ từ kể lại chuyện xảy ra cho Galina: những phản bội, lường gạt,  tình trạng nhu nhược, nỗi sợ hãi. Cô dường như  sống động trở lại và ngồi chung bàn với họ. Khi ánh bình minh ló dạng và ngọn nến đã tàn lụi, anh có cảm tưởng  mình đã chôn sống cô ta.
     Ngày hôm sau, ông già  Heikki đưa hai người đến Hồng Thập Tự Đan Mạch. Dường như ông ta có vẻ  vui thích trở  lại với việc liên quan đến  đời sống của  con người.  Ông ta thật là một con người quảng đại. Ông rộng rãi với tiền bạc,  với sự khoản đãi, quà tặng.  Ông  rộng rãi với cả việc chia sẻ Galina. Lúc này, ông không còn gì để cho nhưng vẫn  biếu tặng thì giờ và sự hướng dẫn của ông trong cái thành phố đầy ác  mộng này.
     Nhân viên đại diện Hồng Thập Tự, vừa khi  coi giấy tờ của Daisy và biết cô là ai đã nồng nhiệt chào đón cô với vẻ kính trọng. Edwin thật kinh ngạc. Anh chưa khi nào nghĩ đến  công việc của Daisy, danh tiếng của cô, hay ít nhất là danh tiếng của đơn vị hội Thân Hữu Cứu Tế của cô lại được  trọng vọng cao quý như thế.
-     Có quá nhiều người đầy lòng nhân ái như cô bị kẹt lại và  bị cô lập ở đây. - Người đàn ông vừa nói vừa bắt tay cô thật nồng ấm. -  Chúng tôi đã không có tin tức gì từ Buzulus trong nhiều tháng qua. Có một số đã đi về hướng Vladivostok, nhưng giờ chỉ có Chúa biết chuyện gì đến với họ.  Chiến tranh với người Tiệp đã bùng nổ dọc theo  những tuyến đường rầy xuyên Siberia. Chúng ta chỉ có thể cầu nguyện cho họ sống sót. Ở Mạc Tư Khoa  đây có hai người trong đoàn của cô. Họ đang coi sóc một nhà trẻ em tỵ nạn ở Znemenka.
-    Những ai vậy? – Daisy của ngày cũ trở lại. Dù đau yếu, cô bỗng trở nên linh hoạt, tự tin và tiếp tục chống chỏi trở lại.
-     TheodoreeikkiHeikki
.  Rigg và Esther White. Họ đang ở tại nhà Tolstoys, gia đình đã  cho họ trú ngụ cho đến khi họ tìm được phương tiện  trở về. Cô sẽ được chào đón ở nơi đó. Tôi chắc chắn thế.
     Cô mỉm cười,  lưỡng lự nhìn Edwin.
-     Tôi nghĩ tốt nhất tôi  nên ở chung với người bạn tôi đây. Ông Rautenberg sẽ để chúng tôi ở lại với ông chứ, phải không ạ?
     Heikki gật đầu lia lịa.
-     Đây là người bạn tôi, anh Edwin Willoughby. Tình trạng của anh thật khó khăn. Giấy tờ của anh  đã  bị công an ở Tver tịch thu từ tháng Tư vừa qua.  Dù cách nào đó anh đã khôn khéo xoay xở để tồn tại  không giấy tờ, nhưng  chúng tôi phải cố  để xin được cái giấy tờ mới  để anh có thể ra khỏi đây.
     Người đại diện Đan Mạch quay qua Edwin, gương mặt ông điềm đạm.  Khi nói chuyện với Edwin, giọng ông có vẻ hơi khích lệ. Edwin nhận ra rằng bên cạnh Daisy, anh  được coi như một người tỵ nạn  bất lực và anh bắt đầu tự hỏi  có phải người nhân viên này nghĩ đúng không? So với Daisy, anh thuộc  loại vô giá trị.
-    Xin giấy tờ mới không dễ dàng gì. Hội Thân Hữu thì khác.  Họ có một hồ sơ lý lịch rất tốt. Ngay cả lúc này dù  dân Anh bị thù ghét, họ vẫn được chào đón. Còn đối với anh, anh bạn, mọi sự vô cùng khó khăn.
-     Nếu ông chỉ cần đưa Daisy ra khỏi đất Nga…
-     Không được!
     Căn phòng im tiếng. Nhân viên Đan Mạch ngạc nhiên đăm đăm nhìn Daisy.
-     Tôi chỉ ra đi khi có anh đi cùng. Nếu anh không đi dược, vậy thì tôi sẽ ở lại đây giúp anh.
-     Điều đó không thể  được. Tôi không biết còn ai khác có thể giúp…
     Daisy, hai gò má cô bỗng ửng đỏ lên, cô nói.
-     Trước đây, khi tôi đến Mạc Tư Khoa lần trước, người ta đã bảo tôi. Họ nói nếu một người đàn ông có giấy tờ hợp lệ và người đàn bà  làm đám cưới với người ấy,việc đó có thể giúp được.
-     Đúng vậy, việc đó có thể giúp.
     Daisy hắng giọng.
-      Như vậy trường hợp ngược lại có được không? Nếu người đàn bà có giấy tờ, và lại là một nhân viên của hội Thân Hữu được trọng vọng cao, việc này có giúp cho  người đàn ông không?
    Không có tiếng trả lời.
-   Tôi có giấy tờ. – Daisy nói. – Tôi có giấy tờ và tôi là một trong những nhân viên của hội Thân Hữu. Nếu hai chúng tôi làm đám cưới, có lẽ sẽ dễ dàng hơn, phải như vậy không?
     Gương mặt người đại diện Hồng Thập Tự vẫn bất động.
-      Điều đó có lẽ có  thể giúp được. Nếu cô  tìm ra được một linh mục chịu cấp giấy hôn thú trước khi  anh bạn trẻ này có được giấy tờ, ít ra chúng ta có chỗ để có thể  bắt đầu làm việc. Ít nhất, anh bạn đã  có thể hiện hữu trên  tờ giấy hôn thú.
-    Vậy đó là điều chúng tôi sẽ làm. – Daisy nói. – Chúng tôi sẽ tìm được  một linh mục.
     Sau đó, khi trở lại căn phòng của ông Heikki, anh  cố bàn thảo  với cô về chuyện ấy nhưng  cô không nghe.  Cô bịt tai lại mỗi lần anh muốn bàn cãi và cuối cùng  chuyện tranh luận trở nên lỗ mãng, vô ích và anh không có cách gì khác ngoại trừ việc chấp nhận.  Cả hai cùng muốn trở về nhà và đó là tất cả những gì họ muốn. Và bỗng nhiên một tiếng nói nhỏ nhoi vang lên trong lòng cho anh biết vì sao cô làm  việc ấy. Cũng cùng một lý do vì sao cô đã liều mạng đi tới đất Nga tìm kiếm anh. Cô cứ giả vờ  đó chỉ là vấn đề hình thức để thích nghi với hoàn cảnh, nhưng thực ra anh đã biết vì sao cô làm thế.
     Cuối cùng, chính ông Heikki đã tìm được một linh mục. Xử dụng gần hết số tiền lấy được từ tên công an bị triệt hạ,  ông linh mục sẵn sàng làm đám cưới, mặc dù thiếu sự đăng ký trước của Edwin. Ngôi nhà thờ bé nhỏ, bên trong ảnh tượng, bàn thờ và đồ đạc quý vẫn nguyên vẹn. Cách mạng chưa đụng tới Giáo Hội. Có lẽ họ không bao giờ đụng tới. Ông linh mục mập ú và dễ hối lộ. Edwin  nghĩ so sánh ông với  ông linh mục tử tế ở trong làng, người đã chôn cất Galina với vẻ buồn rầu và cầu mong ông được bình an.
     Không phí một giây, vừa khi hôn lễ  hoàn tất, anh quay sang nhìn Daisy bên cạnh và  thấy niềm vui sướng bí mật hiện rõ trong đôi mắt cô,  niềm hạnh phúc, sự trông ngóng và  một  sự van nài thiết tha mong anh đừng phá vỡ niềm hạnh phúc ấy của cô.
     Anh không thể làm điều gì khác hơn ngoài việc cúi xuống hôn lên đôi môi cô:
-   Daisy yêu dấu. – Anh nhẹ nhàng nói. – người vợ của anh.
     Rồi anh có được giấy tờ hợp pháp. Nhân viên hội Hồng Thập Tự và Daisy, hai người  trong  hội Quakers cuối cùng đã giúp anh có được một sổ thông hành tạm  do chính quyền Sô Viết cấp. Vào ngày mười tháng Hai, một chuyến xe lửa đặc biệt chở những cư dân  Pháp cuối cùng ra khỏi Mạc Tư Khoa, có  mặt ba nhân viên hội Thân Hữu và Edwin  trên toa. Điều cuối cùng anh nhìn thấy là gương mặt đơn độc của ông Heikki Rautenberg đứng trên thềm ga. Một giai đoạn cuộc đời anh đã đóng lại.
     Họ bước chân lên  cây cầu nhỏ băng qua dòng sông ở Byelo-Ostrov hai ngày sau đó. Đã  tới đất Phần Lan. Hai người đã về bến tự do.

                                  (Xem tiếp chương 30)


No comments: