Chương 25
Muôn dặm tìm chàng
D
|
aisy đến Tver hai ngày sau khi Edwin đã ra đi. Mang bọc hành lý trên vai, cô phải cuốc
bộ từ nhà ga, vì xe điện đã bị trật khỏi đường rầy vào lúc sáng sớm, mọi sự vận
chuyển đều bị ngưng trệ. Mệt mỏi, nhưng khi
tới được vành đai trung tâm thành phố, một cảm giác hưng phấn tạo thêm năng lực và sự kích thích
giúp đôi chân nhức mỏi của cô rảo bước trên đường. Cô đã viết địa chỉ trên một mảnh giấy và giữ kỹ trong túi,
nhưng thật không cần thiết. Cô đã thuôc lòng nó trong trí. Dường như số mệnh cũng đã
nhận ra là hành trình của cô đã quá khó
khăn, cô tìm ra địa chỉ không mấy khó khăn. Gõ cửa nhiều lần, cuối cùng cũng có
một người đàn bà quê mùa, trên tay bế
con nhỏ ra mở cửa. Daisy mỉm cười chào.
- Chào
bà. Xin hỏi, Galina Barshinskaya, người
chị tôi đang ở đây cùng với chồng, một người Anh. Tôi đến thăm họ.
- Không
có! - Người đàn bà trả lời, gương mặt đầy
vẻ sợ hãi. Bà cố đóng cửa lại. Daisy đưa tay chận lại. Tim cô bắt đầu đập mạnh.
- Một
người Anh cao lớn. – Cô đưa tay lên ước lượng chiều cao của Edwin. – Cao lớn, hơi
gầy, mắt xanh. Và chị tôi thì đang ốm, tên
Barshinskaya…
- Không
có ở đây. - Người đàn bà nói một cách vô
cảm. – Đã đi rồi.
- Đi rồi?
Đi đâu? Sao họ lại đi?
- Có rắc rối lớn. Nên họ phải đi. Chúng tôi không muốn bị phiền
phức.
- Không,
làm ơn chờ một chút. - Daisy đẩy cái túi
của cô về phía trước để người đàn bà không đóng cửa đưọc. – Tôi phải tìm ra họ.
Họ ở đâu?
- Đi rồi.
Tôi không muốn rắc rối. Cô đi mà hỏi chồng tôi. Ông ta không có nhà.
Cô muốn
gào lên, nhưng rồi tự kiềm chế.
- Tôi có
thể đợi ông ấy được chứ?
- Không
phải ở đây. Tối nay trở lại. Tôi không
muốn rắc rối.
Cái túi
bị đẩy ra ngoài và cửa đóng lại. Cô bỗng nhận ra mình đang đói khát và cần xử dụng
nhà vệ sinh, nhưng không dám đi quá xa.
Cô đặt cái túi xuống sát tường và ngồi lên đó. Bỗng nhiên cô tức giận. Phải bao nhiêu vất vả từ xa tới đây, phải chuẩn bị
thế nào để khuyến khích Edwin và Galina làm đám cưới, để đưa họ về Mạc Tư
Khoa. Tất cả bị cản trở bởi một người đàn
bà quá ư sợ hãi, đến không cho cô một lời giải thích. Đột nhiên, cô đứng
dậy và lại đập cửa lần nữa. Cô cứ đập và đập mãi cho dù cửa không mở, và biết rằng mình nhất định không
chịu đầu hàng cho đến khi cửa mở ra. Cuối
cùng, nó cũng phải mở, người đàn bà hiện ra, vừa giận dữ vừa sợ hãi.
- Tôi đã
phải vất vả đi biết bao dặm đường từ Samara ở miền Nam đến đây để tìm chị tôi. – Daisy nói, gương mặt trắng bệch vì cơn giận. - Tôi sẽ không bỏ đi cho tới khi nghe được hết mọi việc bà cần phải cho biết. Nếu bà
không muốn phiền phức với công an, bà tốt hơn để tôi vào nhà nói chuyện với bà.
Nếu không tôi cứ đứng ngoài này suốt ngày
và làm ầm ĩ lên trước cửa nhà bà.
- Ssss…. – Và trong lúc Daisy không chú ý, bà ta
nắm tay cô kéo tuột vào trong nhà. Họ đứng trợn mắt nhìn nhau
- Bây
giờ, làm ơn nói cho tôi biết về chuyện
chị tôi và người đàn ông người Anh.
- Họ đã
đi rồi. Hai hôm trước đây, Họ đi trên một chiếc xà lan chở ngũ cốc xuôi theo dòng sông. Trước đó có trắc trở. Người đàn ông bị công an đánh đập dã
man. Họ không có giấy tờ tùy thân, chúng đã bị công an tịch thu. Vì thế họ phải
bỏ đi ngay. Chồng tôi đã tìm cho họ một
chỗ trên xà lan đó.
- Họ đi
đâu? Cách bao xa theo dòng sông?
- Ai biết?
- Người đàn bà nhún vai. Dường như bà ta đã hoàn hồn lại và bây giờ chỉ còn ra vẻ không quan tâm. Điều đó không làm Daisy
thắc mắc quá . Cô đã từng chứng kiến biết bao cảnh thay đổi thái độ nhanh chóng
như thế từ những người dân quê ờ Mogotovo của cô.
- Chiếc
tàu đó đi về đâu?
- Trước
đây, nó thường đi Ruibinsk. Nhưng bây giờ không còn lịch trình gì. Thỉnh thoảng nó đổi
hàng hoá ở trạm ghé đầu tiên và tiếp tục xuôi dòng Volga, có thể đi tới tận
Nijni Novgorod, có thể đi xa hơn nữa, ai mà biết? Lúc này có quá nhiều người ra lệnh lạc.
- Tên
chiếc tàu kéo đó là gì?
- Nó không
có tên. Trước đó là Nicholas. Nhưng cái
tên đó đã bị sơn xóa đi rồi. Ông anh tôi bảo thế.
- Anh bà?
- Anh tôi
làm việc cho công ty tàu thủy. Ông ấy nhận
nhiệm vụ lãnh đạo tàu kéo. Ông ấy đã sắp
xếp cho họ đi lên một trong những chiếc tàu ấy.
- Tên ông
ta là gì?
- Alexy
Androv. Nhưng anh sẽ đi suốt mùa hè. Anh sẽ
đi lại trên sông cho tới khi nó đóng băng.
- Xin
cho biết đường nào đi tới sông?
- Cô đón
xe điện đi tới quảng trường Catherine.
- Hôm
nay không có xe điện.
- Thì
phải cuốc bộ. – Bà ta chỉ về phía con đường chính dẫn từ nhà ga đến thành phố.
- Tốt
lắm. – Daisy vừa nói, tay xách túi lên, -
Xin Chúa ở cùng bà.
- Chúa ờ
cùng cô.
Mọi ác
cảm tan biến. Họ nắm tay nhau từ giã, và Daisy vội vã trở lại con đường đi. Nước Nga rộng mênh mông, và con
sông Volga dài mấy ngàn dặm. Dù gì, cô cũng
phải tìm ra họ.
Trong
suốt những ngày còn lại của tháng Năm và qua tháng Sáu, cô lượn lên lượn xuống
con đường dọc theo dòng sông Volga, tới
tận Nijni Novgorod. Ở mỗi trạm dừng chân
chính thức, cô đều xuống khỏi tàu và bắt
đầu dò hỏi mọi người ở tại bãi bến. Đôi
khi tàu bè ra đi bỏ cô lại, bởi cô chạy
theo những chỉ dẫn sai lạc trong một vài ngày, trước khi quay trở lại dòng sông
và lại phải xin đi quá giang trên một chiếc tàu khác. Cô cố gắng đi tìm theo lối
suy nghĩ của Edwin, và cảm thấy chắc chắn rằng, có lẽ điều anh làm phải là lên
bờ trên một phố xá nào đó có trạm xe lửa
đi tới Mạc Tư Khoa. Điều không tránh khỏi
là những nơi này thường là những thị trấn
lớn, những phố thị với những đại lộ thênh
thang, phố xá đông người, đám ăn mày, bọn lính nổi loạn và các băng đảng cộng sản lang thang đầy đường.
Cô luôn
luôn bắt đầu hỏi các xếp bến tàu về một người đàn ông Anh Quốc nói tiếng Nga rất dở,
dáng người rất cao, cao hơn dân Nga và gầy ốm. Đi kèm theo là một cô gái rất xinh đẹp, là một cô gái Nga nhưng
không giống người Nga, tóc đen và có vẻ giang hồ. Họ đi trên một chiếc tàu từng
có tên Nicholas, kéo một xà lan chở ngũ cốc.
Sau những
xếp bến tàu, cô đến các trạm công an, và
như có phép lạ, cô không bao gờ bị bắt giữ qua đêm hay bị tịch thu giấy tờ. Không
như chị cô, Daisy không làm khơi dậy
dục tính, lòng ham muốn hay ghen tỵ gì trong thâm tâm những người đàn ông
cô gặp. Sau trạm cảnh sát, cô lại đi tìm kiếm dò hỏi ở các khách sạn, các nhà
trọ và rồi đám tài xế tắc xi, mặc dù đây là đầu mối chót. Bởi cô nghĩ khó lòng
Edwin có còn đủ tiền để thuê tắc xi. Hai lần cô đi tàu miễn phí bằng cách tình
nguyện nấu ăn cho họ. Thức ăn rất tệ, Chẳng có gì ngoài củ cải và ngũ cốc đã chà
vỏ lấy thẳng từ các bao trên tàu. Nhưng cô đã quen nấu nướng cho người tỵ nạn ở
Samara, và cô đã cố biến chế hết sức mình, làm ra một loại bánh củ cải nhân cá
với bất cứ thứ gì họ bắt được từ dòng sông.
Một đêm,
ở một làng ven sông quá khỏi Keinshma, cô
tìm được một chỗ ngủ trong một căn nhà một tầng ở sát bờ sông, một căn
nhà dơ bẩn với một tấm nệm lót dưới sàn thay cho giuờng chiếu. Suốt đêm, cô ngồi
dựa lưng vào tường. Vào lúc sáng sớm trời còn tối mò, hai gã đàn ông đột nhập vào phòng. Điều này cô không lạ. Cô
biết có ngày nó sẽ xảy ra và đã chuẩn bị đề phòng. Cô có một con dao mũi mài thật
nhọn, và dù cảm thấy ghê rợn, cô đã đâm nó vào vai một gã. Nó rú lên, và cô nắm lấy cái túi hành lý
bỏ chạy. Suốt đêm còn lại, cô co quắp thật
thấp dưới bờ sông nơi không ai có thể tìm thấy.
Chỉ một
đôi lần, có có ngừng lại để tự hỏi vì sao mình không sợ hãi. Thường xuyên chứng kiến
những chuyện kinh khủng xảy ra quanh mình, bắn giết, cướp phá , đốt cháy
làng mạc bởi những đám lính nổi loạn, và
điều tệ hại hơn cả là bọn cán bộ viên chức
Sô Viết mới nổi lên đi bắt giữ dân chúng. Họ thường lên tàu thuyền lục soát,
tra xét giấy tờ và lâu lâu lại dẫn đi một số hành khách. Tuy vậy, cô chẳng bao
giờ có một lần sợ hãi. Trong lòng cô, không có chỗ cho sự sợ hãi, chỉ toàn là nỗi
lo lắng liên bỉ, cứ luôn tư hỏi chuyện gì đang xảy ra cho Edwin và Galina, chỉ
mong cô sẽ tìm thấy họ trước khi có điều không may đến với hai người.
Cô lại
khám phá ra rằng, nếu không cẩn thận, cô sẽ bị kẹt ở giữa cuộc chiến. Người trưởng
bến tàu ở Yaroslav cho cô hay có một đội
quân từ miền Bắc đang di chuyển tới, và nếu cô xuôi dòng xa hơn , cô có thể bị
chận lại. Cô tảng lờ đi và cứ tiếp tục.
Dọc bờ sông Volga, chỗ nào cũng toàn bắn giết và nhà cửa bị đốt cháy và chẳng ai biết thủ phạm
là bọn gây rối cướp bóc hay là đám binh
lính nổi loạn.
Nhiều
lần cô bị thiên hạ cười nhạo, không phải vì họ không tử tế, mà vì họ, đám
người Nga đã chịu đựng quá lâu ,cho
là làm điều vô vọng. Rất nhiều lần họ bảo cô: có điên khùng mới đi tìm hai kẻ mất tích ở giữa thời buổi cách mạng. - “ Không! Thế không tốt đâu! Quên chuyện đó
đi. Họ chết rồi. Cô không bao giờ tìm thấy họ. Về nhà đi!” Họ nói vậy, Nhưng
cô biết thế nào rồi cũng tìm ra họ, cô sẽ không quay về cho tới khi cô làm
xong. Và vì thế cô lại tiếp tục tới một trạm bến dừng chân khác cho công việc dò
la tin tức.
Ở tại
Nijni Novgorod, lần đầu tiên cô cảm thấy do dự. Đó là một thị trấn lớn và cô săn
lùng tìm kiếm hết bốn ngày. Trở lại bến tàu trên bờ sông, có một bản đồ của sông Volga
treo trên tường. Với tâm hồn nặng trĩu, cô đến coi xem cô đã đi được bao xa, và còn bao xa nữa cô
phải đi. Ngón tay cô lần theo dòng sông đi xuống, và cô thấy mình đã đi
qua vùng Samara. Một ý tưởng kinh hãi vụt đập vào
đầu: Có thể nào Edwin đã quyết định
thử đi tìm cô. Giả sử anh đã đi theo con
đường thuỷ rộng lớn này xuống tận Samara và lúc này đang cố băng qua miền quê để đi tới vùng đất Buzulus hoang dã.
Trong khi cô tiến lên phía Bắc, anh lại đi về hướng Nam.
Đêm đó
cô ngủ lại trên tàu, cuộn mình trong những cái bao để trên sàn và với sự mường tượng mệt nhọc và bức sốt về bản đồ
toàn nước Nga, vùng đất bao la, dòng sông
rộng lớn với những bờ cát thật thấp trải
dài đến những khoảng cách xa tít mờ.
Bây giờ
họ ở đâu? Làm sao có thể tìm ra họ? Giả như họ đã về nhà? Có lẽ nào, nhờ một kỳ
tích, họ đã thoát khỏi và an toàn ở đất Anh, trong khi cô lại bị lạc lối trong
vùng đất hoang dã mênh mông ở giữa lòng những bình nguyên trên đất Nga?
Tim cô bắt đầu đập mạnh, và lần đầu tiên kể từ lúc bắt đầu cuộc hành trình,
cô thấy sợ hãi. Cô ngồi dậy và nhìn xuống hai bờ sông. Có một hay hai ánh đèn
nhấp nháy trong thị trấn. Như thường lệ , tiếng la hét, tiếng súng bắn giờ trở
thành quá quen thuộc trong đêm, nhưng ở đây trên sông, đêm vẫn yên lặng, chỉ
nghe thấy tiếng sóng nước vỗ vào bờ đá cập tàu và tiếng kêu kỳ cục của loài chim mỏ nhát. Vòm trời đêm rải rác những chòm sao. Và khi cô ngước lên
nhìn, sự hoảng hốt từ từ lắng xuống, thay vào đó là một niềm tin lớn mạnh lên rằng
chắc chắn cô sẽ tìm thấy họ. Cô đã trôi vào giấc ngủ, và khi thức giấc, điều kỳ
lạ về trực giác đã xảy ra. Cô biết rằng
họ đã không đi tới Samara. Cô biết rằng dù họ có ở đâu, nơi đó chắc chắn ở giữa
Nijni Novgorod và Tver. Lần này cô đã lỡ tàu không thấy họ, nhưng ngày mai cô sẽ
phải đổi tàu, ngược dòng đi lên trở lại,
yêu cầu và dò hỏi thêm nhiều người nữa. Ở một nơi nào đó sẽ có ai đó
chỉ cho cách tìm ra họ.
Vào tháng
Bảy, cô trở lại Tver, mệt mỏi, gầy rạc đi,
tiền bạc để dành đã cạn, cũng vẫn tin rằng cô còn có thể làm một điều gì đó. Có
thể có một điều gì gia đình Beekovs đã bảo
cô mà trước đây cô đã bỏ sót. Xe điện chạy
từ quảng trường và cô có thể theo xe đến ngã tư gần nhà Beekovs. Người đàn bà lần
này tử tế hơn. Bà mời cô vào nhà. Cô ngồi ở phòng phía sau của họ và nhận một tách
trà loãng với lòng biết ơn. Cô thật vô cùng cảm động. Những ngày này, trà rất
hiếm và rất đắt.
- Trà thật
ngon! . – Cô nhắm mắt lại để cho cái chất lỏng nóng bỏng thơm ngát làm cô hồi
sinh. – Tôi đã không tìm thấy họ.
- Làm sao
thấy được. - Người đàn bà bỗng né tránh ánh mắt cô, bà quay đi bồng đứa nhỏ dưới
sàn lên.
- Ông
anh của bà từ hôm ấy có trở lại không? Bà có bất cứ tin tức nào từ ông ấy?
- Anh tôi
có trở lại một lần
Dường
như có gì giấu diếm, không, không phải giấu diếm, như là mủi lòng trong cử chỉ của bà. Tim Daisy bắt
đầu đập mạnh.
- Ông ấy
nói gì? Họ bây giờ ở đâu? Tôi đã đi tìm kiếm mọi làng mạc, thị trấn dọc hai bên
bờ cho tới tận Nijni Novgorod. Họ không
có ở những nơi đó, Ông ấy đưa họ đi đâu?
- Có rắc
rối to. – Gương mặt của người đàn bà vẫn
bất động, nhưng Daisy có thể nhìn thấy trong đôi mắt của bà ta. Chắc chắn là tin xấu. Vì vậy mới có chuyện mời uống trà. Có chuyện
khủng khiếp đã xảy ra. Cô hít vào một hơi dài để tự trấn tĩnh. Cô không thể đổ sụp xuống trước mặt người đàn bà này.
- Làm ơn
cho tôi biết. – Cô nói nhỏ nhưng hơi chát
chúa.
- Có rắc
rối khi họ xuống tàu, Họ bị bắn. Cô gái bị giết.
- Ôi
chao!...Còn người đàn ông?
- Anh
ta bị thương, không phải bị bắn. Do bị công an tra tấn trước khi ra đi.
Anh đã
không chết. Edwin vẫn sống. Anh chỉ bị thương, có lẽ đau ốm nữa, nhưng anh không
chết. Cô vẫn còn việc phải làm. Nhưng cô không được khóc hay hoảng sợ. Cô phải tự lèo lái mình, lèo lái người đàn bà này nữa.
- Bây
giờ họ ở đâu? Anh chàng người Anh giờ ở đâu? Còn chị tôi thì họ đã làm gì?
- Thật tệ
hại. Ông anh tôi nói, chuyện vô cùng tồi tệ. Họ không muốn chính quyền nhà nước biết họ để cho người nước
ngoài ở trên tàu, nhất là lại có một xác chết. Ông anh tôi đã dấu họ, cả anh ta
và xác của chị cô và rồi đưa họ lên bờ ở một địa điểm không có trong lịch trình, một ngôi làng trước khi tới
Myshkin.
Daisy
nhắm mắt lại. Myshkin. Dĩ nhiên, cô đã có đến đó tìm kiếm. Xuôi theo dòng sông
chẳng bao xa. Ít ra là không xa lắm so với
hành trình cô đã đi tìm.
- Ông
anh của bà có biết chuyện gì xảy ra cho anh chàng đó không?
- Anh
ta bị thương, nhưng không nặng lắm. Anh ta vẫn có thể vác xác đi. Ông anh tôi là
người tốt. Ông không lấy tiền chi phí cho chuyến đi đó. Còn sợi dây
chuyền, ông trả lại cho anh ta. Anh đã quá bất hạnh. Anh tôi nói thế. Và
ông không muốn làm anh ta thêm đau khổ.
- Anh cô
thật là một người tốt. – Daisy âm thầm nói, tay thọc vào túi lục lọi.
- Được rồi!
- Người đàn bà đưa tay ra ngăn cô lại. – Tôi không muốn gì hết. Cô là người tốt.
Không giống chị cô. Cô thật tốt, và y như
dân Nga.
Daisy
uống cạn tách trà, thưởng thức những gịọt
thơm nóng cuối cùng, biết rằng còn lâu lắm mới được uống lại.
- Bà thật
tử tế, thật tốt bụng. Giờ tôi phải tìm một chiếc tàu đưa tôi tới Myshkin. Và nếu
ngôi làng không quá xa, tôi sẽ lội bộ tới.
- Nhớ
cho họ biết cô là một người bạn của ông Alexy Androv, có thể họ sẽ đưa cô tới làng
và ngưng tàu lại cho cô lên. Cô nên tìm các loại tàu nhỏ mà đi. Dòng sông có thể
cạn, và ở đó không có chỗ cho tàu lớn ủi vào bờ.
- Vâng,
tôi sẽ nhớ. Cám ơn bà.
- Cầu Chúa
ở cùng cô.
- Và ở cùng
bà.
Cô mệt
mỏi đi trở lại trạm xe điện, trái tim nặng trĩu
và như muốn nhảy ra ngoài, nhưng cô phải cố giữ sự bình tĩnh. Có quá nhiều
việc phải làm. Sau này, cô sẽ nghĩ về cái chết của Galina. Bây giờ, việc quan
trọng là đi tìm Edwin, e là anh đang đau ốm. Cô phải tìm được anh và nghĩ ra cách
đưa anh trở về.
Họ cố
ngăn cô ra đi. Tàu chỉ có thể xuôi dòng được một khoảng ngắn. Đang có một trận đánh dữ dội ở Yaroslavl chỉ
cách Mydhkin một khoảng ngắn. Đường đi trên sông không an toàn.
Phải
chờ đợi, cô thuê một khoảng trống trên sàn của một căn nhà ở một góc tồi tàn làm chỗ trú ngụ. Cần phải tiết kiệm tiền bạc
để lo lắng đưa họ về.
Tàu bè lại bắt đầu xuôi ngược. Hết chiến tranh này,
lại cuộc chiến khác. Yaroslavl đã thông, bọn Bôn Sê Vích đã “giải phóng” xong , một phần đường thủy đã
được giải toả.
Ba ngày
sau, một chiếc tàu nhỏ thả cô xuống một khu nước cạn đầy sình lầy của dòng sông Volga. Nước chỉ dưới thắt lưng và cô có thể ôm gói đồ
giơ cao khỏi mặt nước đi vào bờ.
Dùng khăn choàng cổ lau khô chân, kéo váy xuống, mang lại giày rồi bắt đầu cuốc bộ vào làng.
O O O
Vị
linh mục của làng đã tìm thấy anh nằm trên
cỏ bên cạnh xác của cô gái. Ông đã rảo bước ra khỏi đám cây phong xào xạc và đến
đặt tay lên bờ vai của Edwin. Giật mình sợ hãi, anh mở mắt ra.
- Cô ấy đã chết rồi, con ạ! Người phụ nữ đã chết.
- Vâng.
- Con có
thể đứng dậy được không?
Ông là
một người già béo mập trong chiếc áo khoác kiểu cổ. Ông khó nhọc cúi xuống, cố
đỡ Edwin đứng lên.
- Đi với
cha.
- Con không
thể bỏ rơi cô ấy. Cô không thể chịu nổi
cô đơn. Cô rất sợ ở một mình.
- Cô gái
ấy không
cô đơn đâu, con ạ! Có Thánh Nữ Đồng Trinh giữ gìn bảo vệ cho cô.
Anh cố
chống lại một tiếng cười phá lên điên loạn
vì sự so sánh. Galina và Thánh Nữ Đồng Trinh… Cơn đau trên ngực như bùng nổ thành
một cơn đau dữ dội đến muốn xoáy thân thể
anh xuống đất. Cô ta đã chết. Người đàn bà dâm đãng vừa tham lam ích kỷ, lường
gạt lại vừa đáng yêu vừa bất lực đã chết.
- Ôi, Lạy
Chúa! Tại sao cô ấy lại chết như vậy?
- Này
con, hãy đi với cha nào. Cha sẽ đưa con đến gặp một người đàn bà tử tế
trong làng. Cha nghĩ con đang đau yếu nhiều.
Lạ lùng
thay, vị linh mục già dường như có sức mạnh
khi Edwin dựa vào ông. Họ chúi mình qua
những rặng cây, và Edwin nhận thấy thấp thoáng bóng một ngôi nhà thờ nhỏ sơn màu vàng trắng. Anh làm một cử chỉ ra
phía sau lưng.
- Thi hài
cô…, nhà thờ…ở đây. - Anh buông tay rời
khỏi vai vị linh mục lục lọi trong túi áo. – Đây, Cha cầm lấy. Cái này là của cô
ấy. Cha phải làm cho cô ấy, tất cả thật tốt đẹp. Cô ấy không thích đồ xoàng xĩnh,
rẻ tiền ,mọi thứ phải hoàn thiện, chôn cất với bộ đồ đẹp nhất.
Anh bỗng
dưng thấy nghẹt thở, khi nhớ lại rằng chính mình luôn luôn la mắng cô về sự
hoang phí. Ông linh mục già cầm lấy chuỗi trân châu thở dài.
- Tất cả
sẽ được hoàn tất theo hết sức mình. Nhưng những lúc này, chúng
ta phải làm điều đó với
phương tiện ít ỏi chúng ta có thôi. Đi nào.
Phía
sau nhà thờ, ngôi làng toả ra trên hai ngã tư đường. Căn nhà gần nhà thờ có khá lớn hơn những căn nhà khác một chút. Vị
linh mục đến gõ cửa.
-
Yelena Nicholaevna!...
Anh cảm
thấy xa cách với mọi thứ quanh mình, thật mệt mỏi. mệt mỏi với con người của
anh và cuộc sống của anh đến nỗi chẳng còn để ý đến việc được dìu vào trong nhà
đặt nằm trên một cái mền dưới sàn nhà dơ bẩn.
Họ đối
xử tử tế với anh. Phải nói là quá tử tế với một người không tiền bạc, không giấy
tờ tuỳ thân. Đây là một ngôi làng nghèo nàn.
Có dáng vẻ một chút sơ khai, hoang dã
để có lúc nhớ lại anh thấy biết ơn.
Ngoài những băng đảng đi lang
thang trộm cướp hồi đầu năm và những cuộc kêu gào tuỳ tiện của bọn quan chức Sô Viết đi trưng thu thực phẩm,
cuộc cách mạng gần như không lý tới họ.
Ngôi làng quá nghèo, quá vô nghĩa, và từ
thưở nào đến giờ vẫn thế, đâm ra chẳng ai buồn quấy rầy họ. Vì thế, họ nghe nói
có một trận chiến dữ dội giữa quân Bôn Sê
Vích và quân của Savinkov quanh Yaroslavl không xa lắm ở phía Bắc, nhưng
họ chẳng nghe thấy một âm thanh chiến tranh nào từ trong làng. Ngôi làng bé tí,
chỉ có ngôi nhà thờ và một dúm nhà đếm trên đầu ngón tay dường như miễn nhiễm với
chiến tranh, cướp phá và đốt nhà đang hoành
hành khắp nơi chung quanh.
Hầu hết
thời gian, anh sống trong giấc mơ thờ ơ,
mà anh còn ngộ ra là cảnh vật chung quanh
lại càng làm nó tăng thêm. Ngôi làng như bồng bềnh giữa cánh
đồng nước xanh ngắt và vòm trời sáng chói
bao la. Lần đầu tiên anh trải nghiệm được
cái cảm giác về đất nước Nga vĩ đại, về
chân trời mở rộng, về những bình nguyên phẳng lặng và những thủy đạo chạy dài như không bao giờ dứt. Mọi thứ đều
hoang dại, hỗn độn. Ngay cả những thứ quen thuôc như các loài hoa cỏ dại mọc
theo dòng nước cũng hơi khác lạ. Chúng dường như to lớn hơn, hoang dại hơn. Cả
đến những con ong cũng có hình dáng khác với loài ong ở quê nhà. Cái thế giới vĩ
đại, xa lạ này càng làm anh nhận ra sự vô
vọng trong việc có bao giờ được trở lại
nhà. Thật vô vọng, luôn luôn vô vọng.
Người ta không thể chiến đấu chống lại một
thế giới rối beng mênh mông như cái thế giới này. Nó quá to lớn. Chỉ có thể cúi
đầu chấp nhận một đời sống không tránh khỏi ở
trong làng.
Khi bờ
vai và mấy mảnh xương sườn bị gãy đã lành
lặn, anh đi ra đồng cố làm việc hết sức
mình. Chồng bà Yelena đã không trở về nhà sau chiến tranh. Bà có một em
trai, hai đứa con trai, một đứa con gái đã lớn mà đầu óc như trẻ thơ, nhưng không
có đàn ông cho riêng mình. Anh thấy là, trở thành một cái máy làm việc không
suy nghĩ đã giúp đỡ anh nhiều. Dù sao,
anh cũng phải trả nợ cho những người này, nhưng với công việc lao động chân tay
không ngớt cũng làm cho anh có thể tự biến mình thành một cái máy tự động không
cần tới đầu óc mà anh đang mong muốn như
thế. Anh sửa chữa cái trục quay của giếng
nước trong làng đã hư hỏng trong nhiều tháng, muối cá dự trữ cho mùa Đông, vun
xới và gieo trồng rau cải hết mẫu đất này
đến mẫu khác, cuốc đất trồng khoai, sửa lại các mái nhà hư dột và chuyên chở các
bành cỏ khô về nhà chuẩn bị cho mùa lạnh sắp tới. Anh nói năng rất ít, và theo
thời, dân làng đành chấp nhận anh như một người nước ngoài lập dị, khá vô hại,
một người làm việc chăm chỉ với thái độ chăm sóc trẻ em và thú vật rất tử tế,
nhưng đầu óc không bình thường lắm.
Có một
lần vào một buổi chiều tháng Bẩy, khi một đàn ngỗng trời bay ngang qua, nỗi đau
nhớ nhà chợt tràn ngập tim anh. Ký ức về cái mùa hè bao nhiêu năm trước, khi
gia đình Barshinskey đến, mùa hè của đàn én và bày ngỗng trời. Giờ này anh lại có một sự thèm khát được trở về nhà kinh khủng, trở về với những
người thân quen trong làng của anh. Nỗi đau đớn lúc này quá hiện thực đến đỗi
anh phải chạy ngay về nhà của Yelena và ẩn
náu trong đó, nơi mà giờ là một bầu không khí đầy mùi súp bắp cải pha lẫn mùi mồ hôi, mùi những thân thể đã lâu không tắm rửa, mùi hành
tỏi, mùi than củi trong lò đã thành quen
thuộc nhưng không chút gợi cảm. Giờ anh chỉ muốn mình không còn cảm giác mạnh mẽ về bất cứ chuyện gì nữa.
Sự cứu
thoát anh, nếu có thể tạm gọi như thế, đã đến vào một ngày Chúa Nhật tháng Tám
khi anh mang một bao lúa mì đến nhà vị linh mục già. Anh bỏ bao lúa lại và rồi,
vì nghe có tiếng ca hát trong lúc đi qua nhà thờ, anh bước vào trong và lập tức sững sờ trong ánh
rực rỡ. Chưa từng bao giờ bước vào một
nhà thờ nào trong suốt thời gian ở Nga, anh đã đưọc nuôi dạy theo
truyền thống đạo giáo bảo thủ khắt khe, và cái sảnh đường hội họp của làng , anh luôn cho rằng đó là ngôi
nhà đúng đắn cho Thiên Chúa. Cái quang cảnh
trang hoàng với những đồ trang trì bằng vàng thật quá sức huy hoàng tráng lệ, trần và tường
được vẽ tranh và vị linh mục trong lễ phục màu vàng và bạc làm cho anh
thật tình e dè sợ hãi. Lời ca man dại với tính chất than vãn vang lên trên không trong ngôi nhà thờ nhỏ bé
nhưng xinh đẹp lạ thường tạo nên một âm
thanh sầu thảm dường như xoáy vào nỗi đớn đau trong tâm hồn con người.
Anh
nhìn quanh những gương mặt quen thuộc trong làng: những khuôn mặt nâu xạm, nhăn
nheo và cằn cỗi dõi theo từng bước chân của vị linh mục khi ông cầm bánh Thánh trong tay đưa lên. Anh
cảm giác được mối cảm động trinh nguyên
của con người, âm nhạc và sự đẹp đẽ bất ngờ xâm chiếm tâm hồn anh và anh bắt đầu
hiểu ra. Cái đất nước to lớn, thảm sầu và đầy bi kịch này đã cướp mất
Galina khỏi bàn tay anh và dìm anh xuống
thành một tên ăn mày vô tổ quốc, đã tặng
cho anh điều này như một sự bồi thường thiệt hại. Đây là điều họ tự quản
để sống. Đây là điều, từ giờ trở đi anh phải sống. Những ngày giờ, những năm tháng
dài dặc khổ đau hững hờ và công việc nặng
nhọc chồng chất, rồi vài giây phút ngắn
ngủi về sự ngất ngây, về cái viễn tượng phía sau đời mình, anh bỗng nhiên thông hiểu Galina và tâm trạng hay dối gạt của cô. Cuộc đời phải
được sống ở hai cực điểm, hoặc vinh quang chói lọi, hoặc hèn hạ đáng khinh. Còn
sống lừng khừng ở giữa thật không đáng sống.
Có lẽ từ lúc này nó sẽ là lẽ sống
của anh.
Rời khỏi
nhà thờ, anh đi tìm đến ngôi mộ của cô.
Sự đớn đau về cô vẫn còn đó, nhưng
bây giờ anh đã có thể nối kết với
cường độ xúc cảm của cô. Tuy nhiên
nỗi đớn đau về cái chết của cô làm
nhụt chí anh bao nhiêu, nó cũng mang lại những
giây phút vinh quang bấy nhiêu. Giờ anh đã là một người Nga như cô. Có lẽ anh sẽ phải sống ở đây, chết ở đây, tự
đầu hàng vào cuộc sống làng quê
lạt lẽo vô vị và vất vả nặng nhọc này.
Đầu hàng theo số phận thì dễ hơn là cứ phải cố gắng để cứu lại cái con
người ngày xưa của anh.
Anh trở
lại nhà thờ rất lâu sau khi mọi người đã ra về. Vị linh mục già đang đi lanh quanh dập tắt những ngọn nến. Và ngay cả lúc đó, cái khí
sắc vinh quang rực rỡ vẫn còn hiện diện
trong thánh đường.
- Con phải
về đi chứ?
Vị
linh mục tiến tới gần và ghi dấu Thánh Giá trên trán anh, và Edwin cảm thấy sự
bình an đi vào tim anh.
- Con ở
trong tay Chúa. Hãy tự dâng mình cho ý
nguyện của Người.
Thật dễ
dàng để làm vậy. Và thật nhẹ nhõm khi từ bỏ chính mình cùng những toan tính cá
nhân. Lúc này anh có thể buông xuôi mọi
sự, không thử cố gì nữa.
Bước
ra khỏi Thánh Đường vào giữa trưa, bầu trời bao la, cảnh quan bát ngát không còn áp chế anh nữa. Mình chỉ là một đốm nhỏ không
đáng lưu ý trong vũ trụ. Anh chậm rãi băng qua những cây phong đi về phía dòng
sông, thấy như trong ảo tưởng rằng, mọi
vật kể cả anh đều ở đúng vị trí, trong cái
toàn cảnh bất biến. Trên con đường làng rộng rãi và bụi bặm, một bóng dáng nhỏ bé của một người phụ nữ quê mùa thất
thểu từ dưới bờ sông đi về phía anh.
Anh lặng
ngắm nhìn không chút hứng thú khi bóng dáng ấy đang tới gần, chỉ lờ mờ để ý thấy là cái váy cô mặc ướt nhem bám chặt vào đùi. Người
đàn bà có mang một chiếc khăn màu xanh trên đầu và một gói to ôm trên tay. Khuôn mặt điển hình của những người đàn bà anh nhìn thấy mỗi ngày,
gò má cao, đôi mắt xám sâu thẳm nhỏ hẹp trên gương mặt rám nắng, một gương mặt
rất vô cùng quen thuộc.
- Edwin!
- Người đàn bà kêu lên bằng tiếng Anh.
- Phải anh đó không, Edwin?
Và với
một cảm giác phẫn nộ đến cứng người, một tiếng hét chói tai đến rợn người vào cái thế giới và cuộc
sống mà anh đã không còn muốn nhớ tới , anh nhận ra đó là gương mặt của Daisy May Barshinskey.
(Xem tiếp chương 26)
No comments:
Post a Comment